• Nenhum resultado encontrado

90625282-XAC-ĐỊNH-HAM-LƯỢNG-KIM-LOẠI-NẶNG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2021

Share "90625282-XAC-ĐỊNH-HAM-LƯỢNG-KIM-LOẠI-NẶNG"

Copied!
33
0
0

Texto

(1)

XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG KIM LOẠI NẶNG TRONG THỰC PHẨM

TỔNG QUAN

Kim loại nặng là những kim lọai có khối lượng riêng lớn hơn 5g/cm3.

Một số kim loại nặng có thể cần thiết cho sinh vật, chúng được xem là nguyên tố vi lượng. Một số không cần thiết cho sự sống, khi đi vào cơ thể sinh vật có thể không gây độc hại gì. Kim loại nặng gây độc hại với môi trường và cơ thể sinh vật khi hàm lượng của chúng vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

Các kim loại nặng được hấp thụ vào cơ thể chúng ta với một hàm lượng vừa phải, chúng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với cơ thể: xúc tác tổng hợp ra noradrenalin, chất dẫn chuyền hoạt động thần kinh thức tỉnh và chú ý. Tham gia vào việc tổng hợp ra sắc tố melanin, tham gia hoạt động chuyển hoá các mô liên kết và chuỗi phản ứng hoá học liên kết của tế bào. Tham gia vào quá trình tổng hợp gen, tổng hợp protein, trong chuyển hoá acid béo chưa no tạo ra màng tế bào…

Xã hội càng phát triển, vấn đề ô nhiễm môi trường càng đặt lên hàng đầu, ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn khác nhau đây là mối nguy cơ đe dọa sự sống của muôn loài. Quá trình đô thị hóa nhanh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước phát triển là nguy cơ gây ô nhiễm kim loại nặng cho nước, đất và không khí. Sự nhiễm độc bởi các kim loại nặng như Zn, Cd, Pb, Cu…gây ra những bệnh âm ỉ và nguy hại đối với con người và động vật.

Các kim loại nặng này được hấp thụ vào cơ thể vượt quá giới hạn cho phép, chúng sẽ gây độc đối với cơ thể như: ngộ độc cấp tính, khi các kim loại độc như asen, chì, thuỷ ngân bị hấp thụ vào cơ thể với lượng nhỏ có thể gây chết người, gây ra các bệnh mãn tính, có thể gây đột biến gen, ung thư, thiếu máu, các bệnh tim mạch, bệnh ngoài da, bệnh gan, các vấn đề liên quan đến tiêu hoá, rối loạn thần kinh…

Các kim loại này được hấp thụ vào cơ thể qua lương thực - thực phẩm, nước uống cũng có thể qua bát đĩa, đồ chơi. Lương thực thực phẩm bị nhiễm kim loại nặng thì các kim loại này sẽ thúc đẩy quá trình hư hỏng thực phẩm, làm giảm giá trị dinh dưỡng cũng như giá trị cảm quan của thực phẩm.

(2)

Thực phẩm có thể bị nhiễm các kim loại nặng từ nhiều nguồn khác nhau: Nguyên liệu dùng chế biến thực phẩm, trong quá trình chế biến, bảo quản thực phẩm, quá trình chuyên chở thực phẩm..

Trong thời đại ngày nay việc sử dụng hoá chất đưa vào sản xuất khá phổ biến nên nguy cơ nhiễm các kim loại nặng vào thực phẩm ngày càng tăng do đó tình trạng ngộ độc do các kim loại nặng đang gia tăng. Vì vậy việc tìm ra “

các phương pháp xác định hàm lượng kim loại nặng” có trong thực phẩm là

(3)

Phần I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH MỘT SỐ KIM LOẠI Cu, Zn, Pb, Cd

I. Phương pháp trắc quang

Phương pháp phân tích đo quang là phương pháp phân tích công cụ dựa trên việc đo những tín hiệu bức xạ điện từ và tương tác của bức xạ điện từ với chất nghiên cứu.

Nguyên tắc của phương pháp là dựa trên khả năng tạo phức màu của chất phân tích với một thuốc thử nào đó. Đo độ hấp thụ quang của phức màu ta sẽ biết được nồng độ chất phân tích.

Phương pháp có ưu điểm là tiến hành nhanh, thuận lợi. Có độ nhạy cao, độ chính xác được tới 10-6mol/l. Tuỳ thuộc vào hàm lượng chất cần xác định

mà có độ chính xác từ 0,2 tới 20%. 1.1. Định luật Lambe-Beer

Khi chiếu một chùm bức xạ đơn sắc (cường độ bức xạ ban đầu là I0) đi

qua một lớp dung dịch có bề dày l và có nồng độ là C, thì sau khi đi qua dung dịch cường độ bức xạ bị giảm đi (cường độ của bức đi ra khỏi dung dịch là I) do quá trình hấp thụ, phản xạ, tán xạ... Độ hấp thụ quang của dung dịch tỷ lệ thuận với C và l. Aλ = lg I I0 = ε.l.C % truyền qua: T = 0 I I . 100 (%) → A = − lgT Trong đó: Aλ : Độ hấp thụ ε: hệ số hấp thụ mol (lit.mol-1.cm-1).

ε đặc trưng cho khả năng hấp thụ ánh sáng của dung dịch. Phụ thuộc vào bản chất dung dịch và bước sóng λ.

l: bề dày dung dịch (cm) C: nồng độ dung dịch (mol/l)

1.2. Phương pháp trắc quang (phương pháp ditizon)

(4)

1.2.1. Bản chất của phương pháp ditizon.

Ditizon ( Diphenyl thiocacbazon) có công thức: NH – NH – C6H5

S = C

N = N – C6H5

Tan trong cacbon tetra clorua và clorform tạo thành dung dịch có màu xanh lá cây. Ở dạng phân tử tức là trong môi trường acid hoặc trung tính. Ditizon rất khó tan trong nước. Dung dịch càng có phản ứng kiềm thì độ tan của ditizon càng tăng do tạo thành ion Dz -.

HDz Dz- + H+

Ditizon tạo với ion nhiều kim loại những ditizon có màu, ít tan trong nước nhưng tan trong cacbon tetra clorua hay cloroform.

Các ditizon có thể tồn tại dưới hai dạng, tuỳ thuộc vào độ acid của môi trường.

- Trong môi trường acid hay trung tính thì chúng tồn tại dưới dạng xeton.

- Trong môi trường kiềm chúng tồn tại dưới dạng enol. NH – N – C6H5 N – N - C6H

S = C MI MI – S – C MI

N = N - C6H5 N = N - C6H5

Dạng enol thường ít tan trong cacbon tetra clorua và cloroform. Cân bằng chính xảy ra khi chiết là

Mn+ + nHDz MDz + nH+

Ngoài ra còn phai kể tới cân bằng:

H+ + Dz- = HDz pK

A = 8,7

1.2.2. Ứng dụng.

Hiện nay phương pháp ditizon được dùng rộng rãi để xác định các độc tố kim loại trong lương thực thực phẩm. Phương pháp này xác định được lượng nhỏ kim loại từ 0,1 tới 200 microgam (γ).

(5)

1. 3. Chuẩn bị mẫu

Kẽm, đồng, chì có trong lương thực phẩm với lượng nhỏ nên muốn xác định chúng cần phải vô cơ hoá lương thực thực phẩm. Có hai phương pháp vô cơ hoá:

1.3.1. Phương pháp khô.

a. Dụng cụ, hoá chất

Capxun dung tích 250 ml Bếp cách cát

Pipet 100 ml Giấy lọc

Bình định mức dung tích 250 ml Magie dioxyt (MgO2)

Cân kỹ thuật Canxi acetat Ca(CH3COO)2

Phễu Acid nitric đặc (d=1.4)

Bếp điện, lò nung điều chỉnh được nhiệt độ ( 600- 7000 C)

b. Tiến hành

- Dùng pipet lấy chính xác 100 ml thực phẩm ( nếu là sản phẩm lỏng) hoặc lấy cân 100 g thực phẩm ( nếu là sản phẩm khô) cho vào capxun.

- Thêm vào capxun 0,5g MgO2 và 0,5g Ca(CH3COO)2 để tăng tốc độ vô cơ

hoá và chống việc tạo thành các hợp chất bay hơi chủa kim loại nặng khi đốt ( vô cơ hoá). Các chất này nhất thiết không được chứa thiếc, đồng và chì.

- Đặt capxun trên bếp cách cát, đốt cho thực phẩm cháy hoàn toàn thành than.

- Đặt capxun vào lò nung, nung ở nhiệt độ 600- 7000C, đến khi sản phẩm

biến hoàn toàn thành tro xám, khoảng 3 giờ.

- Lấy capxun ra khỏi lò nung, để nguội, cho vào capxun 20 ml acid nitric đặc ( tuyệt đối không chứa đồng và chì) và 50 ml nước cất hai lần, nước tráng cũng chuyển vào bình định mức. - Thêm nước cất đến vạch mức, lắc kỹ. 1.3.2. Phương pháp ướt a. Dụng cụ, hoá chất Capxun dung tích 250 ml Bếp cách cát 5

(6)

Pipet 100 ml Giấy lọc Bình định mức dung tích 250 ml Phễu Cân kỹ thuật

Bếp điện, lò nung điều chỉnh được nhiệt độ ( 600- 7000 C)

- Hoá chất: Acid nitric đặc ( d = 1,4) Acid sunfuric đặc (d = 1,84) Amon axetat NH4(CH3COO)2

b. Tiến hành

- Lấy lượng mẫu như trên cho vào capxun. Thêm vào capxun 3 ml acid nitric đặc và 50 ml acid sunfuric đặc.

- Đặt capxun lên bếp điện, đun sôi dung dịch trong capxun. Tiếp tục đun và cứ mỗi phút lại nhỏ thêm 5- 20 giọt acid nitric đặc. Khí NO2 màu nâu sẽ

thoát ra (làm trong tủ hút hơi).

- Nếu thấy dung dịch trong capxun thẫm màu lại thì tăng tốc nhỏ acid nitric đặc. Khi dung dịch trở nên nhạt màu thì giảm tốc độ nhỏ acid nitric đặc, đến khi dung dịch không màu thì thôi. Tiếp tục đun cho khói trắng bốc đi hết, rồi lại tiếp tục đun sôi 10 phút nữa.

- Nếu sau đó dung dịch vẫn không màu thì việc vô cơ hoá đã hoàn toàn xong. Nếu dung dịch đen trở lại thì nhỏ acid nitric.

- Lấy capxun ra khỏi bếp điện. Cho vào capxun 0,20g amonaxetat, khuấy cho tan hết.

- Chuyển toàn bộ dung dịch từ capxun vào bình định mức dung tích 250 ml. Thêm nước cất hai lần đến vạch mức, lắc kỹ.

Nếu dung dịch capxun bị đục thì phải lọc trước khi chuyển vào bình định mức.

Ghi chú: Phương pháp đốt khô nói trên để xác định đồng và chì cũng được thừa nhận để xác định thiếc. MgO2 để tách ra oxy hoạt động giúp oxy

hoá nhanh các chất hữu cơ. Ca(CH3COO)2 đóng vai trò phá vỡ MgO2 làm tăng

(7)

dùng Mg(CH3COO)2 và NaCl: Mg(CH3COO)2 và Ca(CH3COO)2; NH4Cl và

NaCl, (NH4)2CO3…

Song hỗn hợp MgO2 và Ca(CH3COO)2 tỷ lệ 1/1 làm cho tốc độ đốt chất

hữu cơ nhanh nhất.

II. Phương pháp định lượng bằng quang phổ hấp thụ nguyên tử. 1. Nguyên tắc chung của phương pháp AAS

Các mẫu thực phẩm sau khi được vô cơ hoá hoàn toàn, được phun vào hệ thống quang phổ hấp thụ nguyên tử, rồi người ta đo độ hấp thụ bức xạ từ nguồn phát bởi hơi nguyên tử trong mẫu (được chuyển thành hơi nguyên tử tự do).

Nguyên lý của phương pháp này như sau: Nguồn sáng đơn sắc được phát từ đèn Cathod rỗng ( HCl) hoặc đèn phóng điện phi cực (EDL) hay đèn phổ liên tục có biến điện qua vùng nguyên tử hoá đến bộ cảm biến ( detector) để đo cường độ bức xạ hay hấp thụ.

Mỗi kim loại có bước sóng hấp thụ đặc trưng riêng.

Đèn cathod rỗng (HCL) hay đèn phi cực (EDL) được cấu tạo do chính nguyên tố đó được làm nguồn phát bức xạ đặc trưng. Điều này làm cho phương pháp ổn định và ít bị nhiễu.

Cường độ bức xạ bị hấp thụ tỷ lệ thuận với nồng độ nguyên tố có trong mẫu ( trong một giới hạn nồng độ). Đây chính là cơ sỏ để phân tích định lượng.

+ Với phương pháp F-AAS sử dụng ngọn lửa là hỗn hợp khí (không khí-axetilen) với tỉ lệ 5,2/1,25 L/ph (V/V) đo chì ở bước sóng λ = 217nm. Có thể dùng thuốc thử APDC (amoni pyrolydin dithiocacbamat) trong MIBK (metyl isobutyl ketone) (mẫu được axit hoá bằng axit HCl đến pH = 4÷5). + Với phương pháp AAS không dùng ngọn lửa thì nguyên tắc của phương pháp là: mẫu được đưa vào lò, tại đây nó được sấy khô, tiếp đến là tro hoá và cuối cùng muối của chì được phân ly dưới dạng chì nguyên tử, trong môi trường khí trơ Argon. Điều kiện nguyên tử hoá là: sấy ở nhiệt độ 120oC ÷ 200oC, trong thời gian là 30 giây; tro hoá ở nhiệt độ 450oC, trong thời

(8)

gian 20 giây; nguyên tử hoá ở nhiệt độ 1900oC, trong thời gian 3 giây. Vùng

tuyến tính là: 2 ÷ 50 ng/ml. 2. Ứng dụng.

Phương pháp này được dùng để xác định hàm lượng kim loại có trong mẫu thuỷ sản, mẫu nước và nước thải.

III. Phương pháp cực phổ.

Phương pháp Von – Ampe là nhóm các phương pháp phân tích điện hóa dựa vào việc đo dòng tại điện cực chỉ thị theo thế áp vào, qua đó xác định nồng độ chất cần phân tích. Một trong hai điện cực có diện tích bề mặt khá nhỏ (bé hơn diện tích bề mặt điện cực kia khá nhiều ) nên rất dễ bị phân cực và quá trình khử hay oxi hóa của ion kim loại khảo sát xảy ra trên chính điện cực này. Đo cường độ dòng điện chạy qua bình điện phân ứng với các giá trị điện thế khác nhau đặt vào hai điện cực, vẽ I = f(E) ta sẽ nhận được một đường cong gọi là đường cong phân cực. Qua đó xác định nồng độ chất cần phân tích.

Phương pháp Von – Ampe có hai nhóm chính là phương pháp cực phổ và phương pháp Von – Ampe hòa tan. Đây là những phương pháp sử dụng rộng rãi nhất trong phân tích điện hóa.

3.1. Khái niệm về phương pháp cực phổ.

Phương pháp cực phổ cũng là phương pháp điện phân, nhưng ở đây việc xác định nồng độ thông qua việc nghiên cứu quan hệ giữa điện áp đặt vào hai điện cực (E) với dòng điện (I) hình thành trong quá trình phân cực.

Phương pháp cực phổ có thể định tính và định lượng nhiều chất bằng cách điện phân dung dịch phân tích trên điện cực giọt thuỷ ngân, rồi sau đó vẽ đường biểu diễn Dòng-Thế ghi sự biến đổi cường độ dòng theo sự biến đổi cường độ thế điện cực của sự thuỷ phân.

Về nguyên tắc của phương pháp cực phổ

Phương pháp cực phổ bao gồm các giai đoạn:

- Đặt các thế khác nhau vào điện cực để khử các ion khác nhau vì mỗi ion có một thế khử tương ứng xác định, do đó qua thế khử của ion có thể định tính được ion đó.

(9)

- Nếu tăng dần thế của điện cực nhúng vào dung dịch chất cần xác định thì cường độ dòng sẽ tăng lên đồng thời cho tới khi đạt được thế khử của ion trong dung dịch. Trong điều kiện nhất định, cường độ dòng tăng tỷ lệ thuận với nồng độ ion khử.

Do sự phụ thuộc giữa cường độ dòng và nồng độ mà định lượng được ion đó.

Sơ đồ nguyên tắc của phương pháp cực phổ

Tiến hành phân tích:

Dung dịch phân tích được nạp vào bình định phân có điện cực thuỷ ngân. Anot là lớp thuỷ ngân ở đáy bình. Catôt là giọt thuỷ ngân rơi liên tục từ giọt mô quản.

Đặt vào điện cực thế tăng dần sẽ tạo được dòng có điện cực tăng dần, cường độ này được điều chỉnh bằng một điện kế. Sau đó sẽ thu được một đường phụ thuộc Dòng - Thế (đường cong vôn – ampe)

Dòng khuyếch tán là dòng được tạo do sự khử ion trên điện cực giọt thuỷ ngân.

(10)

Dòng khuyếch tán được tính theo công thức Incovit: id = 605.Z.D1/2 .m2/3 . t1/6

Trong đó : id : cường độ dòng khuyếch tán Z : hoá trị ion bị khử

D : hệ số khuyếch tán hoặc số phân tử gam ion khử khuyếch tán qua bề mặt 1 cm2 trong 1 đơn vị thời gian để cho gadian

nồng độ bằng đơn vị.

C : nồng độ ion khử miliion g/ lit.

M : khối lượng thuỷ phân rời khỏi mao quản trong đơn vị thời gian, tính ra mg/giây.

T : thời gian giọt thuỷ phân rơi khỏi mao quản, s.

Trong thực tế khó xác định được hệ số khuyếch tán D, nên người ta đo song song dung dịch chất tiêu chuẩn và chất phân tích, rồi thiết lập đường cong vôn – ampe của cả hai dung dịch và tính nồng độ (X) chất cần phân tích theo công thức: x = tc x h h a.

Trong đó : a: khối lượng chất trong dung dịc tiêu chuẩn.

hx và htc : chiều cao sóng của dung dịc phân tích và dung dịch

tiêu chuẩn.

Phương pháp cực phổ không chỉ xác định các cation, nó còn có thể xác định được các anion và phân tử có khả năng khử trên điện cực giọt thuỷ ngân.

Ưu điểm của phương pháp:

Độ nhạy cao có thể xác định các chất có nồng độ 10-5 - 10-6 gam/lit.

Có thể đồng thời xác định nhiều chất không cần tách biệt chúng. Nhanh: chỉ tốn vài phút để xác định nồng độ chất trong dung dịch.

• Chuẩn bị dung dịch xác định:

Cân 10 – 50 g sản phẩm vào bát sứ rồi đem sấy khô hoặc cô trên nồi cách thuỷ đến cạn khô. Sau đó thêm vào bát 10 – 12 giọt acid sunfuric đặc (d = 1,84) rồi đưa vào lò nung đốt ở 5000C đến thành tro. Lấy bát ra để nguội thêm

(11)

Cặn trong bát được hoà tan bằng acid hydric loãng (1/1) đun nhẹ trên nồi cách thuỷ. Chuyển tất cả vào bình định mức dung tích 50 ml (dung dịch chỉ chiếm nửa thể tích của bình). Trung hoà acid bằng amoniac. Thêm nước cất đến vạch mức lắc kỹ rồi lọc. Giữ lấy kết tủa hydroxyt chì và thiếc trên giấy lọc. Nước lọc I dùng để xác định đồng.

Kết tủa trên giấy lọc được hoà tan bằng acid HCl (1/1) nóng, thêm vào 2 – 3 g acid tactric, 1 lượng natri sunfit và đun trên nồi cách thuỷ cho bốc hết SO2 đi. Sau khi làm lạnh dung dịch được chuyển vào bình định mức dung tích

50 ml, trung hoà acid dư bằng amoniac đặc đến dư, thêm nước cất đến vạch mức lắc kỹ rồi lọc. Nước lọc II dùng để xác định chì. Kết tủa hydroxyt thiếc được hoà tan trong HCl(1/1) trong bình định mức 50 ml, thêm 0,1g canxi hypophotphit CaH2PO2 và thêm acid Clohydric (1/1) đến vạch. Lọc dung dịch

này, nước lọc III dùng để xác định thiếc. 3.2. Ứng dụng.

Trong phân tích thực phẩm phương pháp cực phổ dùng để xác định các ion kim loại nặng, muối ăn, đường fructoza, saccaroza, các vitamin C, B1, xác định đặc tính nấm men và vài độc tố chất hữu cơ.

3.3. Phương pháp Von – Ampe hòa tan xung vi phân DDP

Quá trình xác định bằng phương pháp Von – ampe hào tan xung vi phân gồm hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Điện phân làm giàu kim loại trên bề mặt vi điện cực màng thủy ngân (catot):

M2+ + 2e = M (Pb, Cu, Zn, Cd)

- Giai đoạn 2: Hòa tan kim loại kết tủ trên bề mặt điện cực và ghi dòng hòa tan bằng phương pháp Von – ampe kết hợp xung vi phân (DPP) dưới dạng pic.

Là phương pháp tối ưu nhất để xác định kim loại nặng. Trong những điều kiện thích hợp cường độ dòng hòa tan tỷ lệ thuận với lượng kim loại đã kết tủa trên bề mặt điện cực tức là nồng độ chất cần xác định trong dung dịch.

Phương pháp này có độ nhạy, độ chọn lọc và độ lặp lại cao, thực hiện nhanh và khá đơn giản .

Trong phương pháp cực phổ xung vi phân, điện cực giọt thuỷ ngân được phân cực bằng một điện áp một chiều biến thiên tuyến tính với tốc 11 ∆Fei ∆Estep Chu kỳ giọt tstep E t

(12)

độ chậm ( 1 – 2 mV/s ) nhưng vào cuối mỗi chu kỳ giọt ( giọt rơi cưỡng bức nhờ bộ gõ ), trên khung điện áp biến đổi một chiều người ta đặt thêm một xung vuông góc với biên độ thay đổi trong khoảng 10 – 100 mV và độ dài xung cỡ 400 – 100 ms. Cường độ dòng là hiệu của giá trị dòng ghi ở 17ms trước khi nạp xung và 17ms sau khi ngắt xung.

Hình 1.5 : Dạng điện áp phân cực trong phương pháp DPP ∆Fei : Biên độ xung

∆Estep : Bước thế một xung điện

tstep : Thời gian nạp xung điện

Hình 1.6 : Dạng tín hiệu đầu ra của phương pháp DPP

Ưu điểm của phương pháp này là có độ nhạy cao ( 10-7 M ) đối với các

hợp chất vô cơ cũng như hữu cơ, phản ứng thuận nghịch cũng như không thuận nghịch. Hơn nữa dạng đường cực phổ là dạng píc có cực đại nên sau mỗi lần ghi đường nền lại trở về vị trí ban đầu nên độ chọn lọc của phương

ip = i1 – i2

E

(13)

pháp này tăng lên nhiều lần : có thể xác định đồng thời nhiều nguyên tố mà không cần tách hay làm giàu.

Tuy nhiên cần lưu ý rằng do giới hạn phát hiện cực tiểu trong cực phổ xung vi phân là thấp hơn nhiều so với phương pháp cổ điển nên ảnh hưởng của điện trở hệ đo cần được xem xét kỹ. Thường nồng độ nền điện li phải lớn hơn chất phân tích 20 – 50 lần để loại trừ ảnh hưởng của sự điện chuyển và để loại trừ ảnh hưởng của độ dẫn điện thấp do nồng độ nền nhỏ phải sử dụng hệ đo 3 điện cực.

Phần III: Các phương pháp xác định

I. Các phương pháp xác định Chì (Pb)

(14)

Để xác định Pb trong nước bề mặt, nước sinh hoạt thường dùng phương pháp chiết trắc quang với thuốc thử Dithizon là phương pháp cho phép xác định từ 0,1÷1,0mg Pb/l.

Pb là kim loại dễ xác định bằng phương pháp cực phổ, phương pháp này cho phép xác định Pb trong nước từ 0,05mg đến vài mg trong 1 lit nước. Để xác định Pb trong những loại nước sạch có hàm lượng nhỏ hơn 0,02 mg/l nên dùng phương pháp phân tích điện hoá hoà tan.

1. Phương pháp cực phổ

Trong phương pháp này, người ta phân cực điện cực giọt thủy ngân bằng một điện áp một chiều biến thiên tuyến tính với thời gian để nghiên cứu các quá trình khử cực của chất phân tích trên điện cực đó. Vì vậy, thiết bị cực phổ gồm hai phần chính là máy cực phổ và hệ điện cực bao gồm điện cực giọt thuỷ ngân và điện cực so sánh. Đường cực phổ biểu diễn sự phụ thuộc của chiều cao cường độ dung với nồng độ chất phân tích.

Ion Pb (II) là một trong những ion có hoạt tính cực phổ bị khử trên catot thuỷ ngân thành kim loại.

Trong nền NaOH 1 M phức Pb(OH)3− bị khử thuận nghịch và cho

sóng cực phổ với thế bán sóng -0,76 V so với cực calomen bão hoà.

Nếu trong dung dịch có chứa Fe (III) với hàm lượng không lớn lắm, sắt sẽ bị kết tủa hidroxit trong nền NaOH và không gây trở ngại đến sự xác định Pb. Nếu hàm lượng sắt lớn kết tủa Fe(OH)3 sẽ hấp phụ Pb, trong trường hợp

này nên xác định Pb bằng phương pháp thêm chuẩn.

Nếu trong nước có lượng tương đối lớn Cu (II) trong môi trường kiềm dư nó cũng bị tan một phần dưới dạng CuO22- và sóng của đồng cũng ảnh

hưởng đến sự xác định Pb. Trong trường hợp này sau khi đã thêm NaOH vào dung dịch phân tích để lắng kết tủa rồi dùng pipet lấy ra 10 ml dung dịch trên thêm vào 0,5ml KCN 1M để che đồng. Lượng xianua không được dư nhiều vì sự dư nhiều sẽ làm giảm bước sóng của Pb. Tuỳ thuộc vào hàm lượng Pb mà ta tiến hành như sau:

+ Lấy 25ml mẫu nước cho vào bình định mức dung tích 50ml nếu cần pha loãng mẫu nước để trong 25ml đó chứa khoảng 0,1÷3 mg Pb. Nếu hàm lượng Pb trong mẫu chỉ nằm trong khoảng 0,5÷5 mg Pb/l thì cần lấy 250ml mẫu thêm vào đó 1ml HNO3 đặc.

(15)

+ Làm bay hơi trong bếp cách thuỷ đến cạn khô, hoà tan bã khô trong nước cất và chuyển toàn bộ dung dịch thu được vào bình định mức 50 ml.

+ Tiếp theo thêm vào 5 ml NaOH, 1ml gielatin định mức bằng nước cất và lắc đều dung dịch. Nếu có kết tủa hydroxit thì cần để lắng và tiến hành lấy phần dung dịch trong và tiến hành ghi cực phổ ở độ nhạy thích hợp từ -0,4÷-1,0 V so với anot đáy thuỷ ngân.

+ Đo chiều cao sóng và dựa vào đường chuẩn để xác định hàm lượng Pb.

Nếu hàm lượng mẫu có chứa 0,05÷1mg Pb/l thì lấy 250ml mẫu nước cho vào cốc chịu nhiệt thêm vào 1ml HNO3 đặc và làm bay hơi dung dịch đến

khô. Thêm vào bã khô để nguội 0,5ml HNO3 đặc và cô lại lần nữa. Cho vào

bã khô để nguội 5ml dung dịch NaOH 10M +1ml gielatin + 44ml nước cất trộn đều (dung dịch nền). Sau khi bã khô hoà tan hết tiến hành đo ghi cực phổ từ -0,4÷-1,0 V so với đáy anot thuỷ ngân. Dựa vào đường chuẩn để xác định hàm lượng Pb.

Nếu mẫu chứa lượng lớn chất hữu cơ cần phá huỷ chúng như trong phương pháp dithizon ở trên. Để loại oxi không dùng Na2SO3 vì ion Pb (II) sẽ

kết tủa dưới dạng PbSO4, đặc biệt với trường hợp nồng độ Pb lớn. Cần dùng

không khí trơ như N2 hoặc H2 tinh khiết cho chạy qua dung dịch trước khi ghi

cực phổ để loại oxi. Dùng gielatin để loại trừ cực đại cực phổ của Pb.

Phương pháp Vôn-Ampe hoà tan hấp thụ (AdSV) với thuốc thử 8-hydroquinolin (pH= 7,8÷8,5) Pb cho pic tại -0,54 V với giới hạn phát hiện là 3.10-10M. Bằng phương pháp Von-Ampe hoà tan anot (ASV) trong nền đệm

axetat (pH= 4,6) Pb cho pic tại -0,4 V với giới hạn phát hiện tới 1.10-10M .

2. Phương pháp định lượng bằng quang phổ hấp thụ nguyên tử.

* Thiết bị, dụng cụ:

- Máy quang phổ hấp thụ nguyên tử có trang bị đèn catốt chì rỗng bước sóng cài đặt là 283,3 nm, sử dụng ngọn lửa axetilen không khí với chiều rộng của đầu đốt là 4 inch.

- Chén sứ dung tích 50ml, độ sâu 5cm hoặc cốc thuỷ tinh có mỏ bằng thạch anh dung tích 100ml.

- Tủ sấy ở nhiệt độ 1500C

- Lò nung kiểm soát được nhiệt đọ từ 2500C – 6000C với sai lệch không

quá 100C.

(16)

- Dụng cụ thuỷ tinh đã được rữa sạch bằng acid nitric nồng độ 8N và tráng lại bằng nước cất trước khi sử dụng.

- Cân phân tích có độ chính xác loại đến 0,01g và loại đến 0,001g.

* Hoá chất và chất chuẩn:

-Dung dịch acid clohidric (HCl) nồng độ 1N : pha loãng 82ml dung dịch acid clohidric đậm đặc bằng nước cất 1000ml.

- Dung dịch acid nitric 1N

- Acid Percloric HClO4 đậm đặc 70,5%

- Oxyt Lantan La2O3

- Etylen dinitritetraaxetac EDTA - Dung dịch đệm

+ Cho 163g EDTA vào trong bình định mức 2000ml, sau đó thêm 200ml nước cất và một lượng vừa đủ NH4OH để hoà tan hết EDTA. Thêm 8 giọt chỉ

thị methyl da cam vào dung dịch EDTA.

+ Cho 500ml nước cất vào một cốc thuỷ tinh rồi từ từ cho thêm 60ml dung dịch acid percloric đậm đặc, khuấy đều rồi để nguội. Sau đó, cho 50g acid lantan vào cốc rồi khuấy đều để hoà tan hết lượng acid lantan này.

+ Rót từ từ dung dịch oxyt lantan vào dung dịch EDTA pha ở trên, vừa rót vừa khuấy mạnh. Nếu cần thiết, thêm NH4OH vào dung dịch trên để giữ

cho dung dịch có tính kiềm với methyl da cam (dung dịch có màu vàng). - Dung dịch chì chuẩn:

+ Dung dịch chuẩn gốc 1mg /l: hoà tan 1,5985g nitrat chì chuẩn trong khoảng 500ml dung dịch acid nitric 1N. Sau đó định mức thành 1000ml bằng dung dịch HNO3 1N trong bình định mức.

+ Dung dịch chuẩn trung gian 10mg/ml: lấy chính xác 10ml dung dịch chuẩn gốc cho vào bình định mức 1000ml, thêm 82ml dung dịch HCl 1N vào bình. Sau đó định mức lên bằng nước cất.

+ Dung dịch chuẩn làm việc

Pha loãng dung dịch chuẩn trung gian thành các dung dịch chuẩn làm việc có hàm lượng chì lần lượt là 0,1; 0,2; 0,6; 1; 3; 5 và 10mg Pb/ml bằng dung dịch HCl 1N trong các bình định mức dung tích 50ml.

• Phương pháp tiến hành - Chuẩn bị mẩu trắng

(17)

Làm bay hơi 4ml dung dịch HNO3 đậm đặc trong chén sứ đên khô trên bếp

cách thuỷ. Hoà tan cặn bằng 20ml dung dịch HCl 1N và chuyển dung dịch vào bình định mức 25ml. để nguội bình và định mức tới vạch bằng HCl 1N.

Yêu cầu hàm lượng chì trong mẫu trắng không được lớn hơn 10mg. - chuẩn bị mẫu thử

+ Cân khoảng 25g mẫu cho vào chén sứ rồi sấy khô trong tủ sấy trong thời gian 2h ở nhiệt độ từ 1350C – 1500C. chuyển chén sứ vào lò nung và tăng dần

nhiệt độ đến 5000C. giữ nhiệt độ lò ở 5000C trong 16h để tro hoá mẫu.

+ Lấy chén sứ ra để nguội đến nhiệt độ trong phòng. Cho 2ml HNO3 đậm

đặc vào chén rồi bay hơi dung dịch trong chén cho đến khô trên bếp cách thuỷ. đặt ché sứ trở lại vào lò nung ở nhiệt độ thường, sau đó tăng dần nhiệt độ đến 5000C và giữ nhiệt độ này trong vòng 1giờ.

+ Lấy chén ra để nguội và lặp lại thao tác như trên cho đến khi tro có màu trắng hoàn toàn.

+ Cho 10ml dung dịch acid clohydric nồng độ 1N vào chén có tro rồi hoà tan tro bằng cách nung nóng. chuyển gọn dung dịch vào bình định mức 25ml.

+ Đun nóng phần tro còn lại trong chén 2 lần, mỗi lần với 5ml dung dịch clohydric nồng độ 1Mrồi rót dung dịch vào bình định mức 25ml nói trên. để nguội và định mức tới vạch bằng acid clohydric nồng độ 1N rồi lắc đều.

Tiến hành phân tích:

+ Tối ưu hoá các điều kiện làm việc của máy quang phổ hấp thụ nguyên tử tại bước sóng cộng hưởng 283,3nm và đạt tốc độ dòng của hổn hợp acetylen không khí theo hướng dẫn của nhà sản xuất và điều kiện làm việc chuẩn với chì.

+ Xây dựng đường chuẩn với các hàm lượng của chì lần lượt là 0,0; 0,2; 0,4; 1,0; 3,0; 5,0; và 10,0mg/ml dựa trên độ hấp thụ của chúng. Trong trường hợp tín hiệu nhận được yếu, phải điều chỉnh độ khuyếch đại để được độ hấp thụ A của dung dịch chuẩn (0,2mg/ml) không nhỏ hơn 1%.

+ Khi đường chuẩn có độ tuyến tính tốt, tiến hành đo độ hấp thụ của dung dịch mẫu thử và mẫu trắng đã được chuẩn bị như sau:

•Đối với dung dịch mẫu thử trong, không có cặn lắng: Tiến hành xác định độ hấp thụ 3 lần theo các bước sau: bơm lần lượt dung dịch chuẩn sau đó là dung dịch mẫu thử. nếu số lượng dung dịch nhiều thì thì bơm lần lượt một

(18)

dung dịch chuẩn và 3 dung dịch mẫu thử cho đến khi bơm hết lượng dung dịch chuẩn và mẫu thử, mẫu trắng.

•Đối với dung dịch mẫu thử đục: thêm 1ml dung dịch đệm vào các dung dịch mẫu thử, mẫu trắng đã chuẩn bị ở trên và các dung dịch chuẩn. Sau đó tiến hành xác định độ hấp thụ của các dung dịch như đối với dung dịch mẫu thử trong.

+ Tính hàm lượng chì trong mẫu thông qua đường chuẩn sau khi đã trừ đi mẫu trắng.

Yêu cầu độ tin cậy của phép phân tích. + Độ hấp thụ lại của bơm 2 lần.

Độ lệch chuẩn (CVs) tính theo độ hấp thụ của hai lần bơm liên tiếp của

cùng một dung dịch chuẩn phải nhỏ hơn 0,5%.

Độ thu hồi được xác đình bằng cách sử dụng 5 mẫu đã cho vào một lượng dung dịch chì chuẩn biết chính xác nồng độ. Độ thu hồi tính được phải nằm trong khoảng từ 85% - 115%, độ thu hồi trung bình lớn hơn 90%.

• Tính kết quả: Hàm lượng chì trong mẫu thuỷ sản được tính theo công thức sau:

+ Đối với dung dịch mẫu thử trong, không có cặn lắng. CPb =

M mPb

. 25

+ Đối với mẫu thử đục phải bổ xung thêm dung dịch đệm. CPb = mPb . 1 − d d V V . M 25 Trong đó: CPb: hàm lượng chì có trong mẫu thử (mg/g)

mPb: hàm lượng chì có trong dung dịch mẫu tính được theo đường

chuẩn mg/mol.

25: thể tích dung dịch acid clohydric nồng độ 1M dùng để hoà tan mẫu (ml)

Vd: thể tích dung dịch mẫu thử đã bổ sung 1ml dung dịch đệm để phân

tích (ml)

(19)

2. Phương pháp trắc quang

Phương pháp phân tích trắc quang là nhóm các phương pháp phân tích quang học. Phương pháp này chuyển các chất phân tích thành năng lượng ánh sáng để suy ra lượng chất cần phân tích. Pb (II) là cation kim loại có khả năng tạo phức với nhiều thuốc thử hữu cơ khác nhau. Vì vậy có thể áp dụng phương pháp trắc quang để xác định Pb. Việc xác định Pb bằng phương pháp trắc quang với dithizon là phương pháp phổ biến nhất bởi tính ưu việt của nó.

Dithizon – Diphenylthiocacbazon là thuốc thử hữu cơ có khả năng tạo phức càng cua với hàng loạt ion kim loại, trong đó có chì. Phức chì đithizonat khó tan trong nước nhưng dễ tan và tan nhiều trong các dung môi hữu cơ như CHCl3 hoặc CCl4. Vì vậy, người ta thường dùng phương pháp

chiết trắc quang để xác định chì. Trong CCl4 thì dithizonat có màu đỏ, cực đại

hấp phụ ở λ = 520nm. Chì dithizonat được chiết chọn lọc và định lượng từ dung dịch nươc có pH = 8 – 9 chứa lượng dư xianua là chất dùng để che nhiều kim loại khác có thể cùng bị chiết với chì. Trong môi trường kể trên, cùng bị chiết với chì có cả tali, bbitmut và thiếc (II). Tali không cản trở việc xác định chì nhưng thiếc và bitmut ngăn cản nên cần được tách trước bằng cách chiết chúng từ môi trường axit. Trong môi trường axit chì không bị chiết, còn lại trong pha nước. Thiếc và bitmut được tách trước như sau: thêm hhidrazin vào dung dịch mẫu nước, đun nóng để khử Sn4+ xuống Sn2+ và khử các chất khác.

Sauk hi để nguội, thêm dung dịch natritactrat vào, đưa pH của dung dịch đến 2,3 – 3 ( bằng dung dịch axit tactric). Tiến hành chiết nhiều lần, mỗi lần bằng 5ml dung dịch dithizon 0,1 % trong CHCl3. Tiến hành chiết cho đến khi pha

hữu cơ vãn giữ nguyên màu xanh của dithizon cho đến khi pha hữu cơ vẫn giữ nguyên màu xanh của dithizon. Cuối cùng, lắc pha nước vài lần với CHCl3

( mỗi lần dùng 5ml ) đến khi pha đó không còn màu xanh. Tiến hành chiết như vậy không những tách được thiếc mà còn tách được cả thủy ngân, bạc và đồng.

(20)

Nếu như trong mẫu nước chứa lượng đáng kể các chất hữu cơ cần phải vô cơ hóa chúng bằng cách chho vào vài ml HNO3 đặc và HClO4 đặc rồi cô mẫu đến khô, sau đó tẩm ướt bã khô bằng axit nitric và hòa tan bằng nước cất. các chất oxi hóa cần được khử trước bằng hidrazin.

4. Phương pháp Von – Ampe hòa tan xung vi phân

Hiện nay người ta sử dụng phương pháp Von – Ampe hòa tan kết hợp xung vi phân (DPP) có thể xác định cỡ 10-9M Pb2+ với thời gian không quá 3

phút. Có thể nói hiện nay DDP là phương pháp cực phổ hoàn chỉnh nhất để xác định hàm lượng kim loại nặng vì phương pháp này có độ nhạy, độ chọn lọc cao và có tính vạn năng đối với hầu hết các đối tượng phân tích.

II. Các phương pháp xác định Cadimium ( Cd )

Tuỳ theo hàm lượng Cadimi trong mẫu và yêu cầu của phép phân tích mà chúng ta có các phương pháp xác định Cd phù hợp khác nhau. Sau đây là một số phương pháp xác định Cadimi.

II.2.1 Phương pháp trắc quang

Để xác định Cd bằng phương pháp trắc quang dùng dithizon, người ta chiết bằng CCl4 từ môi trường kiềm mạnh chứa tactrat. Dung dịch dithizonat

của dung dịch Cd trong dung môi hữu cơ có màu đỏ hấp phụ cực đại ở bước sóng λ= 515 nm. Bằng phương pháp này có thể xác định hàm lượng từ phần trăm mg đến miligam Cd.

Trong môi trường kiềm có một số kim loại cũng bị chiết cùng cadimi như bạc, niken, coban, đồng, để loại trừ các nguyên tố này người ta chiết chúng trong môi trường axit trước khi xấc định cadimi.

Hàm lượng Cadimi khoảng 0,01÷ 0,5mg Cd/l có thể dùng phương pháp xác định như sau:

Nếu như mẫu phân tích có chứa lượng lớn chất hữu cơ thì cần vô cơ hoá chúng bằng cách thêm vào thể tích nước lấy phân tích 1÷2ml H2SO4 đặc,

(21)

có màu thì lại thêm 5ml HNO3 đặc và lại làm bay hơi lần nữa, động tác này

lặp đi lặp lại cho đến khi thu được dung dịch không màu. Sau đó làm bay hơi dung dịch đến khô thêm tiếp vào bã 1ml HCl đặc và làm bay hơi lần nữa. Phần bã sau khi để nguội được hoà tan bằng nước cất 2 lần, đun nóng để hoà tan hết muối tan, lọc qua phễu lọc khô bằng giấy lọc và giữ lấy dung dịch để xác định Cd.

Trong môi trường kiềm mạnh các kim loại khác như Ag, Cu, Ni,Co cũng bị chiết cùng với Cd. Các nguyên tố ngăn cản cần được chiết trước khi xác định Cd bằng dithizon từ môi trường axit. Nếu trong mẫu có CN- thì cần

phá huỷ xianua bằng cách thêm 0,5 ml H2SO4 đặc vào 100ml mẫu nước đun

sôi 10 phút trong tủ hút. Sau đó thêm 0,2 ml HCl đặc khuấy đều và để yên (để kết tủa AgCl lắng xuống) trong 2 giờ. Lọc dung dịch rửa phễu bằng vài ml nước cất, trong nước lọc còn có thể chứa một lượng nhỏ bạc

Cu, Hg và một lượng nhỏ Ag còn trong nước lọc được được chiết để loại bỏ bằng dithizon từ môi trường có pH= 2. Thêm vào nước lọc 5ml dung dịch muối xaynhet 20% điều chỉnh pH đến 2 bằng cách khuấy và thêm từ từ dung dịch NH3 hoặc HCl. Cho mẫu vào phễu chiết và chiết mỗi lần bằng 5ml

dithizon 0,1% trong CHCl3, chiết cho đến khi lượng dithizon sau khi chiết vẫn

giữ nguyên màu xanh ban đầu của nó. Sau đó rửa mẫu bằng 10 ml CHCl3 cho

đến khi dung môi rửa không màu.Cuối cùng rửa thêm 2 lần mỗi lần 5 ml CCl4.

Nếu trong mẫu có chứa Ni thì tách bằng dimetylglioxim như sau:

Lấy 50 ml dung dịch mẫu đầu hoặc dung dịch mẫu sau khi vô cơ hoá, cho vào 10 ml dung dịch kalinatritactrat 20% (nếu lấy mẫu sau khi đã tách Ag, Cu, Hg thì chỉ cần thêm 5 ml dung dịch tactrat là đủ). Thêm NH3 vào cho đến

khi pH= 8,5÷9, thêm vào tiếp 5 ml dung dịch dimetylglioxim 1% trong rượu etylic 96%. Cho toàn bộ hỗn hợp vào phễu chiết lắc đều trong 30 giây.Chiết phức niken dimetylglixionat vài lần, mỗi lần bằng 10 ml CHCl3. Cuối cùng

rửa tướng nước bằng 5 ml CCl4.

(22)

Nếu hàm lượng Zn gấp 50 lần Cd thì việc chiết Cd không hoàn toàn và phạm sai số âm. Các chất oxi hoá cần được phân huỷ bằng cách thêm H2O2

vào và đun sôi kỹ. Các chất hữu cơ cần được chiết tách bằng 5 ml CCl4 ở mỗi

lần chiết.

I.2.2.3 Phương pháp AAS

Với phương pháp AAS sử dụng lò nhiệt điện, nguyên tắc của phương pháp là: Mẫu được đưa vào lò, tại đây nó được sấy khô, tiếp đến là tro hoá và cuối cùng muối của cadimi được phân ly dưới dạng cadimi nguyên tử.

Sử dụng thuốc thử là APDC (amoni pyrolidin thiocacbonat) ở pH=9, mẫu được axit hoá bằng axit HNO3 (axit hoá bằng 100ml mẫu bằng 1ml axit

HNO3). Sau đó tiêm vào lò 10µg mẫu, loại dung môi ở 100oC trong 25 giây,

tro hoá ở 450oC trong 80 giây và nguyên tử hoá ở 1950oC trong 4 giây. Đo độ

hấp thụ tại bước sóng λ = 228,8 nm. Dựa vào đường chuẩn để tính kết quả. Trong trường hợp này hàm lượng Cadimi quá nhỏ có thể nâng cao nồng độ bằng cách chiết MIBK (metyl isobutyl ketone) với thuốc thử APDC.

Với phương pháp F-AAS sử dụng ngọn lửa là hỗn hợp không khí- axetylen với tỷ lệ 5,2/1,2 L/ph (V/V), cũng dùngthuốc thử APDC để chiết mẫu, mẫu cũng được axit hoá bằng axit HNO3, thêm vào đó dung dịch axetat

40% để pH= 3÷4, thêm 5ml thuốc thử APDC, để yên trong 2 phút . Thêm 10ml MIBK vào bình lắc mạnh trong 30 giây, thêm nước cất vào cho đến khi dung môi hữu cơ lên đến vạch của bình định mức. Sau đó đưa mẫu vào ngọn lửa của máy và phân tích mẫu. Đo độ hấp thụ ở bước sóng λ = 228,8 nm. Và dựa vào đường chuẩn để tính kết quả (mẫu chuẩn đã được chuẩn bị trong MIBK).

Phương pháp AAS được ứng dụng để xác định cadimi trong nhiều đối tượng khác nhau. Ở bước song 228,8nm thì đạt độ nhạy 0,01μg/ml, giới hạn phát hiện 0,004μg/ml đối với kỹ thuật ngọn lửa. Đối với kỹ thuật không ngọn lưa thì đạt độ nhạy 0,008μg/ml , giới hạn phát hiện 0,002μg/ml.

(23)

I.2.2.4 Phương pháp cực phổ

Nếu trong mẫu phân tích mà hàm lượng Cd cao khoảng trên 1 mg/l thì có thể dùng phương pháp cực phổ để xác định. Vì Cd trong nền hỗn hợp đệm ammoniac và nhiều nền khác cho các sóng cực phổ thuận nghịch và định lượng.

Để xác định Cd bằng phương pháp cực phổ, người ta thường dùng nền đệm ammoniac-amoniclorua (NH3 1M + NH4Cl 1M ). Nếu trong mẫu phân

tích hàm lượng Cu không lớn hơn hàm lượng Cd có thể xác định đồng thời cả 2 nguyên tố và nên dùng phương pháp thêm chuẩn. Trong trường hợp hàm lượng Cu quá lớn so với hàm lượng Cd thì cần che Cu bằng xianua. Các kim loại khác như Fe (III), Bi, Sn, Sb, sẽ kết tủa dưới dạng hydroxit trong dung dịch đệm. Để xác định Cd ta lấy phần dung dịch trong ở trên. Nếu hàm lượng kết tủa quá lớn cần xác định theo phương pháp thêm.

Zn, Co, Ni, Mn là những kim loại trong nền này cho sóng cực phổ ở những thế âm hơn sóng của Cd nên không ảnh hưởng đến việc xác định nó. Nếu trong nước có lượng lớn Pb thì cần tách trước bằng cách kết tủa nó bằng axit Sunfuric loãng và lọc bỏ kết tủa Chì sunfat.

Tuỳ theo hàm lượng của Cd trong mẫu mà chúng ta thực hiện pha loãng hay cô cạn bớt sao cho trong 25 ml mẫu chứa từ 0,05÷1,25 mg Cd. Thêm một giọt Metyl da cam và trung hoà bằng HCl hoặc NH3 đến khi chất

chỉ thị vừa đổi màu. Tiếp theo thêm 10 ml dung dịch nền, 1 ml gielatin, 1 ml đệm Natri sunfit và định mức bằng nước cất, lắc đều dung dịch, cho dung dịch vào bình điện phân và ghi cực phổ từ -0,4 V ÷ -0,8 V so với anot đáy thuỷ ngân. Có thể định lượng bằng phương pháp thêm chuẩn hoặc phương pháp đường chuẩn.

Nếu mẫu chứa 0,02 ÷ 0,5 mg Cd/l thì cần làm giàu bằng cách cô như sau: Lấy 250 ml mẫu, cho vào bát sứ hoặc cốc chịu nhiệt, thêm vào đó 1ml HCl đặc, làm bay hơi đến cạn khô. Thêm vào phần bã khô 5 ml dung dịch được điều chế như sau: Trộn 10 ml dung dịch nền + 1 ml gielatin + 1 ml 23

(24)

Natrisunfit + 38 ml nước cất 2 lần. Cho toàn bộ vào bình điện phân và ghi cực phổ từ - 0,4 V ÷ -0,8 V. Nên xác định bằng phương pháp thêm chuẩn.

Ngày nay với kỹ thuật tiên tiến nhiều phương pháp cực phổ hiện đại có thể xác định Cd cỡ nồng độ 10-9 M trong các nền khác nhau. Đặc biệt có thể

xác định được đồng thời tới 5 nguyên tố cho độ chính xác cao ( ví dụ: Zn, Cd, Pb, Cu, Bi).

Bằng phương pháp Vôn-Ampe hoà tan hấp phụ (AdSV) sử dụng thuốc thử 5-hydroxy quinolin (8-HQ) trong nền đệm HEPES (pH= 7,8) Cd cho pic tại -0,69 V với giới hạn phát hiện tới 1.10-10 M bằng phương pháp

Vôn-Ampe hoà tan anot (ASV), Cd trong nền đệm axetat pH= 4,6 V cho pic tại -0,59 V với giới hạn phát hiện tới 1.10-10M.

4. Các phương pháp điện hóa

Cadimi có thể xác định bằng phương pháp cực phổ. Nguyên tắc của phương pháp này dựa trên sự khử ion Cd2+ trong môi trường axit, trung tính hoặc kiềm. Trong một khoảng nồng độ nhất định của Cd2+ thì cường độ dòng khuếch tán (hay chiều cao song cực phổ) tỷ lệ với nồng độ Cd2+ theo phương trình Incovich: I= k.C

Phương pháp điện hóa dược sử dụng phổ biến hiện nay là phương pháp von – ampe hòa tan anot, là một phương pháp xác định cadimi có độ nhạy cao. Đây là phương pháp vừa xác định vừa làm giàu chất phân tích. Trước tiên cadimi được điện phân làm giàu lên điện cực làm việc ơ thế không đổi. Sau đó hòa tan Cd bằng cách phân cực ngược anot rồi ghi lại đường cong von – ampe hòa tan của cadimi.

Khi xác định cadimi theo phương pháp cực phổ nếu trong mẫu nước hàm lượng Cu lớn thì cần che bằng xianua.

I.3.2 Các phương pháp xác định Kẽm (Zn)` I.3.2.1 Phương pháp trắc quang

Phương pháp trắc quang là phương pháp đơn giản nhanh và nhạy, được dùng phổ biến để xác định các kim loại.

(25)

Kẽm tạo được nhiều phức vòng càng với các thuốc thử hữu cơ có khả năng tạ phức màu với ion Zn2+ được sử dụng trong phương pháp trắc quang

như sau:

Kẽm tạo phức với 2-(5-nitro-2-piridylazo)-5-(N-propyl-N-sunfupropilamino) phenol (nitro-PADS) ở pH = 8 ÷ 9, có bước sóng hấp thụ cực đại ở λmax = 565nm.

Phương pháp này có thể sử dụng để xác định Kẽm khi có mặt đồng thời ion Fe2+

Cu2+. Do đó các ion Zn2+, Fe2+ và Cu2+ có khả năng tạo phức với Nitro-PADS ở các pH

cũng như các bước sóng khác nhau. Fe(II) tạo phức ở pH = 3,4 ÷ 9, λmax= 582nm, Cu (II)

tạo phức 1:1 ở pH = 2,5 ÷ 4,5 và một phức 1:2 đồng thời 3 kim loại trong khoảng nồng độ 0,02 ÷ 0,5mg/ml một cách riêng rẽ, có thể áp dụng phương pháp xác định các kim loại nói trên trong huyết thanh.

Ngoài ra có thể sử dụng thuốc thử hữu cơ 1-(2thiazolylazo)-2-naphtol (TAN) để tạo phức màu với Zn2+, Fe2+ và Ni2+ ở pH = 6,4.

Zn2+ tạo phức với 2-(5-bromo-2-pyridylazo)-5-đietylaminophenol

(5-Br-PADAP)

Phức Zn2+-(5 Br-PADAP) đã được hoà tan bởi rượu etylic, phức có

bước sóng hấp thụ cực đại λmax = 555nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là

1,09.105l.mol-1.cm-1. Khoảng tuân theo định luật Bia 0,1 ÷ 0,5mg

Zn2+/5ml.Phương pháp này có thể áp dụng để xác định trong nước và trong

thức ăn.

Mặt khác có thể sử dụng phương pháp trắc quang để xác định Zn2+,

phức tạo thành Zn2+-(5-Br-PADAP) ở pH= 9,5 (duy trì bởi đệm borax) được

hoà tan trong rượu etylic rồi được chiết bởi naphtalen. Bước sóng hấp thụ cực đại λmax= 555 nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là 1,23.105l.mol.cm-1 .Khoảng

tuân theo định luật Bia 0 ÷ 5,0 mg Zn2+/ml. Có thể sử dụng Natrixitrat,

thioue,calgon và điaxetylđioxim làm chất che.

Zn2+ tạo phức với 5-(2-cacbometoxyphenyl) azo-8-quinolino.

Trong môi trường mixen ion của Natri dodexylsunfat ở pH = 4,0 ÷ 4,8, phức số có màu đỏ da cam, bền trong khoảng 4 giờ. Bước sóng hấp thụ cực đại λ = 488 nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là 4,14.104l.mol.cm-1. Khoảng tuân

theo định luật Bia : 0 ÷ 0,42 mg Zn2+/ml và độ nhạy Sandnll là 1,75 ng/cm2.

Zn2+ tạo phức với axit

7-(4-nitrophenylazo)-8-hydroxyquinolin-5-sunfonic (P-N-AZOXS).

(26)

Kẽm tạo phức nhanh với (P-N-AZOXS) ở pH = 9,2 (duy trì bởi đệm Borax), phức bền trong khoảng 24 giờ hệ số hấp thụ phân tử gam là 3,75.104

l.mol-1. Khoảng tuân theo định luật Bia : 0,05 ÷ 1,0mg Zn2+/ml. Phương pháp

được áp dụng định lượng Zn trong dược phẩm, trong hợp kim đồng. Độ lệch chuẩn R.S.D < 2% và độ đúng tốt.

Trong phương pháp trắc quang hiệu chỉnh, có thể sử dụng axit Crom xanh K(ACBK).Zn2+ tạo phức vòng càng với ACBK dạng Zn(ACBK)

2 ở λmax

= 530 nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là 4,37.104l.mol-1.cm-1.

Dùng thuốc thử Phenylflorua (PF) khi có mặt triton X-100 và xetylpiridin clorua (CP). Bước sóng hấp thụ cực đại λmax = 573 nm, hệ số hấp

thụ phân tử gam là 1,09.105 l.mol-1.cm-1. Khoảng tuân theo định luật Bia: 0,04

÷ 0,4 mg/ml. Có thể sử dụng phương pháp này để xác định Zn2+ trong insulin.

Kẽm tạo phức được với 2,3,7-trihydroxyl-9-đibromo hydroxyl phenyl florua (DBH-PF) khi có mặt CPB và trixon X-100. Phức này có màu đỏ tía pH = 11,4, sử dụng dung dịch đệm Na2HPO4-/ NaOH. Bước sóng hấp thụ cực đại

610 nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là 1,78.105 l.mol-1.cm-1. Khoảng tuân theo

định luật Bia: 0 ÷ 326 mg Zn2+/l. Để tăng độ nhạy và độ chọn lọc của phương

pháp có thể thêm Natri metaphotphat. Phương pháp này được ứng dụng để xác định Zn2+ trong quặng pirit. Độ chính xác từ 0,02 ÷ 0,4%.

Sử dụng thuốc thử N- hydroxyl- N, N-điphenylbenzamidin (HDPBA) và điphenylcacbazon (DPCZO) để xác định Zn2+ trong không khí. Chiết phức

Zn2+ với HDPBA trong CHCl

3 ở pH = 8,2 ÷ 10,3 với sự có mặt của DPCZO

và NH4SO4. Có sự chuyển màu từ hồng sang vàng, bước sóng hấp thụ cực đại

λmax = 525 nm, hệ số hấp thụ phân tử gam là 1,27.105l.mol-1.cm-1. Khoảng

tuân theo định luật Bia: 0÷0,8 mg/ml trong pha hữu cơ.

Để định lượng Zn người ta còn sử dụng phương pháp chuẩn độ trắc quang. Đây là phương pháp tương đối phổ biến trong việc định lượng kẽm. Sử dụng chuẩn độ trắc quang để xác định Zn2+ thường dùng EDTA với chỉ thị

XO. Phức giữa Zn2+-XO được duy trì ở pH = 5,4 ÷ 5,9 bởi dung dịch đệm

axetat, khoảng tuyến tính là 50 ÷ 160 g/l, độ lệch chuẩn tương đối 0,31%.Phương pháp được áp dụng để xác định Zn (II) trong dung dịch kẽm tinh chế với độ thu hồi 99,0 ÷ 101,4%, sai số 0,76%.

(27)

Để xác định Zn (II) trong đồng thau, người ta hoà tan mẫu trong axit HNO3, sau đó oxi hoá bởi KClO3, chuẩn độ bằng EDTA với chỉ thị XO và

xanhbromocrezol ở pH = 5,5. Sử dụng KF, thioure, BaCl2 làm chất che, thứ tự

cho các chất che: KF rồi sau đó là thioure và dung dịch oxi hoá được đun sôi ít nhất trong 2 phút để kết tủa hoàn toàn MnO2. Sai số tương đối là 0,12 ÷

1,0%.

Ngoài ra có thể sử dụng 2,2-bipyridin như một thuốc thử che chọn lọc để gián tiếp xác định Zn. Zn (II) trong dung dịch mẫu ban đầu được tạo phức với lượng dư EDTA, lượng EDTA dư được chuẩn độ bởi Pb(NO3)2 ở pH = 5,0

÷ 6,0 dùng XO làm chỉ thị. Lượng dư 2,2- bipyridin đựoc thêm vào, lắc kỹ hỗn hợp, EDTA trong phức bị đẩy ra được chuẩn độ với dung dịch Pb(NO3)2.

I.3.2.2 Phương pháp cực phổ

Để xác định kẽm bằng phương pháp cực phổ, người ta dùng nền NH3 1M

+ NH4Cl 1M . Trong nền này thế nửa sóng của kẽm ứng với sự trao đổi 2

electron là -1,35 V so với cực Calomen bão hoà. Phương pháp cực phổ cho khả năng xác định được kẽm với hàm lượng nhỏ nhất là 0,01 mg/l. Sai số lớn nhất khoảng 5 %.

Nếu trong mẫu nước còn chứa đồng thời đồng, Cadimi và Niken với hàm lượng xấp xỉ hàm lượng Kẽm thì dùng nền này ta có thể xác định được các nguyên tố đó, vì sóng của chúng trong trường hợp này hoàn toàn tách khỏi nhau. Nếu ghi cực phổ từ -0,2 V thì các sóng thu được trên cực phổ đồ lần lượt là Cu, Cd, Ni, Zn.

Oxi hoà tan trong dung dịch được khử bằng Natrisunfit. Nếu các nguyên tố đồng, Cadimi, Niken và Coban có trong nước với hàm lượng lớn hơn hàm lượng của Kẽm nhiều thì chúng sẽ cản trở việc xác định Kẽm vì sóng cực phổ của chúng ở thế dương hơn sóng Kẽm. Nếu trong máy cực phổ có bộ phận chỉnh dòng khuếch tán ta sử dụng nó để bổ chính dòng cực phổ của các kim loại cản trở đó. Khi hàm lượng của chúng không quá cao thì có thể bổ chính được và thu được sóng của Kẽm khi ghi cực phổ từ -0,8 V. Nếu việc bổ chính không thực hiện được, thì cần tách Kẽm ra khỏi mẫu bằng phương pháp chiết, giải chiết Kẽm lại tướng nước và xác định nó bằng phương pháp cực phổ. Trong trường hợp không cần phải tách Kẽm thì nên xác định nó bằng phương pháp thêm. Sau khi ghi cực phổ dung dịch cần phân tích, thêm lượng nhỏ

(28)

dung dịch chuẩn có nồng độ thích hợp vào dung dịch phân tích và ghi cực phổ lần nữa. lượng Kẽm được thêm vào như thế nào để sóng thứ hai có chiều cao gấp rưỡi hoặc gấp đôi của chiều cao sóng thứ nhất.

Cách tiến hành như sau:

Trong bình định mức dung tích 50 ml, thêm vào 25ml mẫu nước để hàm lượng của kẽm trong đó là 1 ÷ 25 mg. Nếu trong mẫu có hàm lượng Kẽm nhỏ hơn 0,15mg/l, thì lấy 250ml nước thêm vào 1 ml HCl đặc và làm bay hơi đến cạn khô hai lần như nhau và hoà tan bã khô trong 25ml nước cất. Sau đó thêm tiếp vào 5ml dung dịch nền, 1ml gielatin, 1ml Na2SO3 và định mức bằng nước

cất, lắc đều dung dịch trong bình, chuyển 25ml dung dịch vào bình điện phân và ghi cực phổ từ -0,8 V đến -1,5 V, để độ nhạy của máy sao cho sóng thu được có chiều cao ít nhất 20 mm. Thêm vào bình điện phân 0,2ml dung dịch chuẩn (loại nào tuỳ thuộc vào nồng độ Kẽm trong dung dịch mẫu) và ghi cực phổ dung dịch này ở độ nhạy cũ. Chọn nồng độ dung dịch chuẩn thêm vào sao cho sóng thứ hai có chiều cao gấp rưỡi hoặc gấp hai lần sóng thứ nhất.

Nếu trong nước có Đồng, Cadimi, Niken với hàm lượng hàm lượng cho phép xác định cùng với Kẽm, thì cũng tiến hành như trên và ghi cực phổ từ -0,2V đến -1,5V. việc xác định cũng được tiến hành theo phương pháp thêm chuẩn.

Nếu hàm lượng của các nguyên tố ngăn cản quá lớn thì cần tách Kẽm trước như sau: lấy một thể tích nước sao cho hàm lượng kẽm trong đó từ 0,01- 0,5mg trong 50ml. Lấy 50ml đó thêm vào 2 giọt metyl đỏ và trung hoà cẩn thận bằng HCl loãng hoặc bằng NH3 loãng cho đến khi chất chỉ thị vừa đổi

màu. Thêm tiếp vào 20ml dung dịch che. Chiết kẽm một vài lần, mỗi lần bằng 20ml dithizon, chiết đến khi lần chiết cuối màu xanh của dithizon không thay đổi. Gộp tất cả các phần chiết khác, thêm vào đó 25ml HCl 1:5 và lắc phễu để giải chiết kẽm trở lại tướng nước. Giữ tướng nước và lặp lại sự giải chiết hai lần nữa, mỗi lần 25ml HCl. Gộp toàn bộ dung dịch nước thu được, làm bay hơi trên bếp cách thuỷ đến cạn khô và hoà tan bã khô trong nước cất. Tiến hành xác định kẽm như trên.

(29)

Phương pháp AAS dựa trên nguyên tắc tất cả các nguyên tố khi ở trạng thái nguyên tử đều được hấp thụ bởi một bước sóng nhất định, cường độ hấp thụ thể hiện nồng độ của câc nguyên tố đó có trong mẫu.

Nếu ta chiếu một chùm tia sáng có bước sóng xác định vào đám hơi nguyên tử thì các nguyên tử tự do sẽ hấp thụ các bức xạ có bước song ứng đúng với những tia bức xạ mà nó có thể phát ra được trong quá trình phát xạ. Phổ sinh ra trong quá trình này gọi là phổ hấp thụ nguyên tử.

Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử hóa hơi được áp dụng với một số nguyên tố có khả năng nguyên tử hóa như: Hg, As, Se, Zn…

Phuơng pháp AAS là phương pháp hiện đại có độ chính xác cao, có thể xác định lượng vết các kim loại trong các hợp chất vô cơ và hữu cơ với các đối tượng nghiên cứu khác nhau.

Với phép đo AAS có độ nhạy và độ chọn lọc cao. Gần 60 nguyên tố hóa học có thể xác định bằng phương pháp này với độ nhạy 10-4 – 10-5%.

I.4 Nguyên tố Đồng (Cu) và các phương pháp xác định I.4.2.2 Phương pháp cực phổ

Cu (II) có hoạt tính cực phổ, trong nhiều nền khác nhau cho sóng cực phổ định lượng. Trong đa số các nền cực phổ, sóng của đồng nằm trong khoảng thế khá dương so với kim loại khác, từ 0 ÷ 0,6 V. Vì vậy xác định Cu bằng phương pháp này rất thuận lợi và khá chọn lọc. Nền hỗn hợp đệm ammoniac là một trong những nền tốt để xác định Cu.

Trong nền này các ion kim loại bị khử ở thế âm hơn như Cd(II), Co(II), Ni(II), Zn(II), Mn(II)…không gây ảnh hưởng đến việc xác định Cu. Oxi hoà tan trong nước được khử bằng cách thêm vào lượng dư Natri sunfit Na2SO3.

Cromat, Co(III), Tl(III) cũng cho sóng cực phổ trong khoảng thế có sóng đồng nên gây cản trở nếu hàm lượng của chúng đáng kể. Nếu trong nước có hàm lượng lớn Fe(III), Al(III), Bi, Mn là những kim loại kết tủa hidroxit trong môi trường ammoniac, thì kết tủa đó có thể hấp phụ một phần đồng, trong trường hợp này để tránh sai số nên tiến hành định lượng đồng bằng phương pháp thêm chuẩn, không nên dùng phương pháp đường chuẩn.

Nếu trong nước có chứa lượng đáng kể là chất hữu cơ thì cần phải vô cơ hoá mẫu như sau: thêm vào thể tích nước lấy để phân tích 1 ÷ 2 ml axit H2SO4

đặc, 3 ÷ 5 ml HNO3 đặc và làm bay hơi dung dịch trong tủ hút cho đến khi

(30)

xuất hiện khói trắng SO3. Nếu dung dịch thu được còn có màu thì thêm 5ml

HNO3 đặc và làm bay hơi lần nữa, động tác này được lặp lại cho đến khi thu

được dung dịch không màu. Sau đó làm bay hơi dung dịch đến cạn khô. Phần bã sau khi để nguội được hoà tan trong nước cất hai lần, đun nóng để hoà tan hết các muối tan, lọc qua phễu khô bằng thuỷ tinh xốp và giữ lấy để xác định đồng. Để loại trừ cực đại cực phổ dùng dung dịch gielatin.

Nếu mẫu chứa từ 2 ÷ 50 mg Cu/l, thì lấy 25 ml dung dịch mẫu cho vào bình định mức dung tích 50 ml. nếu mẫu nước chỉ chứa khoảng 0,2 ÷ 3 ml Cu/l thì lấy 250 ml cho vào cốc chịu nhiệt sạch, thêm vào 1 ml HCl đặc và làm bay hơi trên nồi cách thuỷ. Sau khi để nguội tẩm ướt bằng 1 ml HCl đặc, hoà tan muối bằng nước cất và chuyển toàn bộ dung dịch vào bình định mức 50 ml. Trung hoà mẫu bằng NH3 đến khi đổi màu metyl da cam, thêm vào 10

ml dung dịch nền, 1 ml gielatin, 1ml Na2SO3 định mức bằng nước cất hai lần

và lắc đều. tráng bình điện phân bằng vài ml dung dịch đó, đổ một phần dung dịch trong bình định mức vào bình điện phân. Ghi cực phổ từ -0,2Vđến -0,8 V ở độ nhạy thích hợp. Sau đó dựa vào đường chuẩn để xác định hàm lượng đồng.

Nếu mẫu có hàm lượng Cu trong khoảng 0,02 ÷ 5ml Cu/ lit nước thì lấy 250 ml mẫu nước thêm vào 1 ml axit HCl đặc, làm bay hơi đến khô, sau đó để nguội thêm vào 5ml HCl đặc nữa và lại làm bay hơi lần nữa đến khô. Sau khi để nguội thêm vào 5 ml dung dịch được chế như sau: 10 ml dung dịch nền được trộn đều với 1 ml gielatin + 1 ml Na2SO3 + 38 ml nước cất, dùng đũa

thuỷ tinh nhỏ khuấy đều cho muối trong cốc tan hết. Chuyển toàn bộ dung dịch vào bình điện phân khô đã chứa thuỷ ngân khô và sạch dùng làm anot đáy. Ghi cực phổ từ -0,2 V đến – 0,8 V. Rồi dựa vào đường chuẩn tính hàm lượng của đồng.

Hiện nay có nhiều phương pháp cực phổ hiện đại có thể xác định Cu cỡ nồng độ 10-9 M và có thể xác định trong nhiều nền khác nhau.

Bằng phương pháp Vôn-Ampe hoà tan hấp phụ, sử dụng thuốc thử catechol (pH = 7,8) Cu cho píc tại -0,2 V với giới hạn phát hiện tới 1.10-11 M.

Với thuốc thử 6-hydroxi quinolin (pH = 6÷ 9) Cu cho píc tại -0,45 V với giới hạn phát hiện là 2,4.10-10 M.

(31)

Bằng phương pháp Vôn-Ampe hoà tan trong nền đệm axetat (pH = 4,6) Cu cho píc tại -0,0038V với giới hạn phát hiện là 1.10-10 M.

I.5.3 Phương pháp Von – ampe hoà tan : Nguyên tắc :

Thiết bị dùng một máy cực phổ tự ghi có 3 điện cực : cực làm việc là cực giọt thuỷ ngân tĩnh, chủ yếu là điện cực HMDE.

Điện cực so sánh thường là calomen hoặc cực AgCl có thế không đổi. Điện cực phù trợ là điện cực platin.

Nắp bình có một lỗ nhỏ để dẫn khí trơ là khí nitơ hoặc argon vào dung dịch để đuổi khí oxi hoà tan. Khi điện phân làm giàu chọn thế điện phân thích hợp và giữ không đổi trong suốt quá trình điện phân. Thế này phải khảo sát sơ bộ.

Đối với quá trình khử trên catot thế điện phân thường âm hơn 300 ÷ 500mV so với thế đỉnh và đối với quá trình anot thế điện phân thường dương hơn thế đỉnh một lượng tương tự. Không phải thế đỉnh càng âm hay càng dương thì càng tốt vì lúc đó sẽ kém tính chọn lọc và giảm hiệu suất điện phân.

Trong quá trình điện phân sẽ khuấy dung dịch từ 2000 ÷ 4000 vòng/phút để khuếch tán dung dịch dưới dạng chảy tầng chứ không phải là chuyển động xoáy. Sau quá trình điện phân thì ngừng khuấy và có một thời gian nghỉ từ 3 ÷ 60s để cho toàn bộ hệ thống dung dịch được yên tĩnh và kim loại được phân bố đều trên hỗn hống.

Bước hoà tan kết tủa được làm giàu trên điện cực :

Điện cực sẽ bị phân cực ngược với quá trình điện phân và ghi đo dòng Vôn – Ampe. Nếu quá trình điện phân là quá trình catot thì quá trình hoà tan sẽ là quá trình anot và đường vôn – ampe hoà tan đựoc gọi là đường vôn – ampe hoà tan anot. Khi quét thế trong quá trình vôn – ampe anot thì thế sẽ quét từ âm sang dương.

+ Cơ chế của phương pháp Vôn – Ampe hoà tan Anot ( ASV ) : Bước 1 :

Làm giàu chất phân tích trên catot : Mn+ + ne + Hg M(Hg)

(32)

Bước 2 : Hoà tan kết tủa trên anot : quá trình anot, quét thế từ âm sang dương dần. M(Hg) - ne Mn+ + Hg Phương trình píc : ip = K . n3/2 . D1/2M(Hg) . CoM . V1/2 . r2 . tacc Trong đó : ip : Dòng píc D1/2

M(Hg) : Hệ số khuếch tán của kim loại M trong hỗn hống

K : Hằng số

n : Số electron trao đổi r : Bán kính giọt tacc : Thời gian làm giàu V : Vận tốc quét

Lượng kim loại được làm giàu catot trong hỗn hỗng :

iacc . tacc

CoM = VHg . n . F ( F : là hằng số Faraday ) Trong đó : VHg = AF . v AF : Diện tích bề mặt màng v : Độ dày của màng

+ Cơ chế của phương pháp vôn – ampe hoà tan catot ( CSV ): Bước 1 :

2Hg Hg22+ + 2e

Hg22+ + 2A- Hg2A2

Bước 2 :

Hg2A2 + 2e 2Hg + 2A

-Trong phương pháp CSV quá trình làm giàu là quá trình anot, quá trình hoà tan là quá trình catot, thế quét trong quá trình hoà tan từ dương sang âm.

(33)

Referências

Documentos relacionados

[r]

Ao argumentar sobre a acessibilidade de pessoas com deficiência visual às plataformas audiovisuais, o artigo tem como objetivo apresentar meios de facilitar aos

As políticas de qualificação e plano de carreira docente/tutores da Faculdade ITOP envolverão, além da implantação do plano de cargos e carreira docente/tutor com as respectivas

Conclui-se que a TA determinada a partir de série de treinamento intervalado de alta intensidade parece ser útil para determinar a aptidão anaeróbia e predizer a performance de 100m

Para os menores valores de velocidade de arame no processo MIG-DP (7-6 m/min) e MIG-C (6,5 m/min), foi observado que não houve grandes alterações microestruturais nas regiões

Se ligar para alguém e a linha estiver ocupada ou a chamada não for atendida, você pode ser notificado com um toque de chamada especial e uma mensagem quando a pessoa

Como dados de base foram utilizados: (i) um inventário histórico das manifestações de instabilidade ocorridas na bacia do Rio Grande da Pipa (1434 movimentos de vertente,

de Ciências e de Biol 04 cr Trabalho Acadêmico de Conclusão de Curso – Lic 03 cr Biologia e Fisiologia Celular 04 cr Biologia do Desenvolvimento Humano 04 cr Genética