• Nenhum resultado encontrado

KAMPONG CH’NANG

No documento Chuyện Lính Tây Nam - Xuân Tùng (páginas 63-100)

Lộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu đoàn bằng xe tải. Từ UĐông lên thẳng Kampong Ch’nang, rẽ phải xuôi ra bờ Tonle Sap. Tiểu đoàn 4 đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Lúc đó ở bến sông KP Ch’năng thuyền cá lưa thưa lắm, không lắm nhà bè sầm uất như bây giờ. Cái “cầu tàu” bằng đất đắp lèn chặt giữa hai hàng cọc gỗ, dẫn thằng ra sông vì chỗ bến này khá cạn. Đại đội 2 qua sông bằng thuyền của dân, về đội hình tiểu đoàn ở “Bôngbăng” theo lính gọi (tức KP Hau trên bản đồ), bên kia thị xã Kampong Ch’nang.

Lúc đó trời đã ngả chiều. Chúng tôi đi theo một đám dân cũng từ bến sông về phum. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khỏang 100m, chẹn cái ngã ba từ tiểu đoàn bộ xuống đại đội 4. Cái nhà không trát, đỏ hoét màu gạch trần. Thằng Vỹ thông báo ngay là đêm nào cũng bị địch tập kích. Trung đội thông tin cũng đảm nhiệm một mũi. Trung đội trinh sát ở cùng BCH tiểu đoàn trong chùa. Đại đội 4 hỏa lực chốt trong cái trường học một tầng lợp ngói, cũng nằm dài theo tuyến chốt của đội hình dọc con đường đất. Đại đội 2 mới nhập lại đội hình, bị đẩy lên cái phum xa nhất. Phum này có cái chùa cây cối rậm rạp như một khu rừng nhỏ.

Về đến nơi kịp làm hụm nước, tôi và anh Ky được phân công xuống đại đội 1. Anh Nhương đuổi bọn tôi đi sớm vì chiều đã tà. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp các nơi. Chủ yếu là đạn nhọn và M.79. Chưa bao giờ bị tấn công ban đêm nên tôi thấy lạ và hơi hoảng. Trước giờ chỉ có mình tẩn nó, còn lần này nó chủ động tấn công mình. Chúng tôi và BCH đại đội nằm sạp, trong cái lều vịt thấp lè tè. Khẩu cối tép nằm ngay cái lều bên cạnh, cách BCH một khoảng sân cho vịt ăn. Khi đại đội 2 chưa về đội hình, trung đoàn tăng cường cho đại 1 tiền tiêu một khẩu DK.75, một khẩu 12.8mm nên lúc này hỏa lực khá mạnh. Chúng tôi không bắn lại. Chỉ khi thấy chớp đầu nòng súng địch mới câu M.79.

Đại đội 1 nằm tựa lưng một gò núi nhỏ mọc đầy tre gai, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Nhìn thấy phía đó có cái sườn núi cháy nham nhở. Rừng thưa trên núi trụi lá, chỉ còn những thân cây khô trắng xám. Ban ngày yên tĩnh. Cánh đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô. Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái. Thằng Sơn “ba tai” còn kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Ch’nang kiếm rau ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử cưỡi ngựa. Dù lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa.

Một lần vào buổi trưa, thằng Đồng “Huế” liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy trên đồng, hướng địch hay vào tập kích . Tôi và nó nằm ngay trên cái sạp trong lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương. Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại thấy bóng người đang đuổi theo nó. Bọn tôi tưởng địch! Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây” bên cối 60 hét lên địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy. Bọn tôi hoảng quá, ngưng bắn ngay. Anh Khanh -(Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là anh Khanh thật, từ từ đứng dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi thằng nào vừa bắn. Thằng Đồng im lặng. Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng địch…”. Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi. Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo ra sau bụi le *** vào, vò sạch máu trâu rồi đi giặt.

Đêm mùa khô lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Những đêm không có tiếng súng thì bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên, đứa nào gác cứ gác, đứa nào ngủ cứ ngủ. Chủ yếu là địch nó bắn chứ chúng tôi đâu có bắn phát nào. Kệ mẹ nó! Lắm đêm, khi nó bắn quá rát, lão Síu gọi liên lạc cùng chạy xuống các trung đội đốc gác trở về. Thấy bọn phối thuộc chúng tôi nằm ngủ, vẫn buông mùng trắng toát liền chửi đ..mẹ chúng mày! Sao lại có cái loại lính khốn như chúng mày? Anh ấy điên lên, giật tung từng tấm mùng. Tôi với anh Ky lặng thinh, thu dọn lại chỗ ngủ, chẳng ai nói gì.

Lắm đêm, địch nó đánh vào cả BCH tiểu đoàn. Ba thằng liên lạc tiểu đoàn và trung đội trinh sát bắn soi qua các ô cửa chùa mà không kêu chi viện. Gần như chỗ nào cũng độc lập tác chiến trong đêm. Trò tập kích quấy rối đó dần dần hầu như không có tác dụng. Một trường hợp duy nhất gây thương vong là ở hai khẩu cối 82mm của đại đội 4. Hai khẩu đội đóng sát nhau, cách mỗi cái sân trường. Một thằng khẩu đội

1 chạy qua sân trong khi địch đang tập kích sang xin nước, bị thằng gác khẩu đội kia bắn què chân…Những đêm nó đánh toàn tuyến thì chỉ mỗi cối tép các C và cối 8 tiểu đoàn lên tiếng. Khoảng đợi chờ giữa tiếng đề pa và tiếng nổ đạn của cối ta là khoảng lặng giống như chờ một ván bài ù. Rất yên lặng!

Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Một hôm, sau khi ăn cơm chiều, bọn thông tin chúng tôi sang A cối uống trà. Tự nhiên thấy anh Síu ôm cái đài chạy sang. Này này, Trung Quốc nó đánh mình rồi! Chúng tôi cứ nhìn vào cái đài đang nói, quên cả uống nước. Được một tý thì anh ấy lại ôm cái đài đi về. Chúng tôi và cả bọn cối cũng chạy theo. Lúc đó BCH không có ai vì ông Khanh với liên lạc không biết chạy xuống trung đội nào. Lát sau thì về đủ, cùng các cán bộ trung đội hội ý chiều. Hôm đó hội ý hội báo chẳng cắt đặt nhiệm vụ gì như mọi ngày. Cả bọn im lặng hút thuốc rê, nghe đài. Lát sau khi hết tin, đến các đoạn nhạc tiến quân thì anh Khanh xua cán bộ trung đội về. Tôi không thấy lo gì. Thậm chí còn thấy mừng, nghĩ rằng có thể đơn vị sẽ được rút về tẩn nhau với bọn này. Nếu đi qua nhà thì tôi sẽ chuồn về ít ngày cho đỡ nhớ. Nói chung lúc đó bọn tôi tự thấy không ngán bọn xâm lược mà chỉ muốn được về nước ngay.

Dường như để phối hợp, bọn Pốt cũng tăng cường hoạt động. Có đêm, giữa đại đội 1 và đại đội 3, có thằng địch phụ B.40 đeo giá đạn lạc hẳn vào đội hình. Lính ta thấy lạ quát hỏi mày ở B nào? Nó chạy loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng. Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch. Một đêm khuya, từ bầu trời bất chợt vọng xuống tiếng kêu, nghe như tiếng trẻ con khóc. Nằm nghe rợn hết cả da người. Ông Khanh đại trưởng đại 1 hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung “kỳ đà” bắn cối. Cối càng bắn, nó kêu càng rền rĩ. Cả đại đội thức, dỏng tai nghe tiếng kêu lạ mà không ai biết là cái tiếng kêu gì. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao địch không đánh mà các anh dùng hoả lực? (Mãi về sau mới biết đó là tiếng kêu của đàn công đất đi ăn đêm). Lúc này, hướng trung đội 2, nghe tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội tổ chức thêm vọng gác. Cả BCH đại đội và tiểu đội cối 60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác phía sau nữa.

Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một cái xác địch to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên (vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. Bộ ka ki dày màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ

loằng ngoằng như giá đỗ. Đôi dép cao su dày, cắt vuông đầu đuôi, tự chế từ lốp xe ô tô. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới tòi ra khỏi nòng được một nửa vì ngã sấp, nòng cắm xuống đất. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây là bọn đặc công, đêm qua định mật tập xơi tái đại 1. Thật may là đàn công đất đã báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối, địch nó tưởng là bị lộ nên rút ra. Có thể hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi tụi nó rút lui. Tiếng AK bắn 3 phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía!

Sau hôm đó thì anh Hải C trưởng C2 tỵ, đòi tiểu đoàn đưa khẩu DK.75 và khẩu 12.8mm lên phối thuộc với đại đội 2 nhưng không được. Anh ấy không bằng lòng. Thỉnh thoảng uống rượu lại báo phát hiện trinh sát địch đang trèo cây trong cụm rừng chùa để xúi anh Khanh cho DK bắn. Những phát đạn xuyên 75mm bay đỏ lừ cả trong ánh sáng ban ngày. Bên đại đội 2 có một nhà thóc không biết dân hay địch bỏ lại. Cái nhà đó có cả một cái cối giã gạo. Ăn mãi gạo cũ nhạt bên nước chở sang, nên thỉnh thoảng anh Ky rủ tôi sang C2 vào ban ngày, xúc thóc đổ ra cối để giã. Gạo mới nhiều nhựa, nấu cơm hay cháo đều quánh và thơm…

Trong thời gian này, thằng T.Anh bạn cùng lớp cũ với tôi, bỏ đơn vị đi từ hổi còn nằm chốt Bờ đê biên giới quay trở lại đơn vị. Chắc hẳn ở nhà khó yên được với tiểu khu, phường đội. Nó lần mò vào được đến tiểu đoàn nhưng anh Sơn không nhận, bợp tai đuổi đi. Nó cứ về đại đội. Trung đội 2 vẫn chia cơm cho nó. Tôi nhớ mấy hôm đó có cả thịt ngựa ăn đàng hoàng. Tối thì nó ngủ ở lán anh nuôi chỗ thằng Lại, thằng Tào. Anh Síu cũng đuổi nó đi nốt. Tôi gặp nó trong lán anh nuôi, bảo mày cứ ở lỳ thêm một thời gian. Các ông ấy hết giận thì nhận lại súng mà chiến đấu. Tôi vẫn còn như nhìn thấy nó trong buổi chiều hôm ấy, tay mân mê một chỉ vàng đã quấn bọc lại bằng chỉ khâu cho khỏi mòn, cúi đầu nghe anh Síu chửi. Nhưng anh Síu đuổi gắt quá nên nó lại bỏ đi. Cả thằng Thoan phố Mã Mây, đang cầm khẩu B.40 ở B2 cũng chuồn đi theo nó. Mất thêm người, anh Síu quay sang chửi cả tôi. Bảo mày là bạn thân với nó, sao không biến mẹ nó nốt đi. Từ đó tôi hận thằng cha này. Anh Síu chính trị viên C1, quê Hải Hưng lính năm 1974 đóng hàm chuẩn úy. Anh ấy có một cái hộp thuốc cá nhân bằng nhựa màu xanh của Trung Quốc. Trong đó đựng mấy tấm ảnh chụp hồi quân quản Sài gòn. Anh Síu trong ảnh mặc quần ga ba đin bộ đội bó ống, tóc để dài như mốt thanh niên thành thị hồi đó. Ngoài ra còn một cái bọc nilon gói đôi quân hàm chuẩn úy có một gạch bạc, không có sao. Thỉnh thoảng lại giở ra xem.

Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Những quả đạn cối Mỹ đã bắn rỉ sét, đôi khi chỏng trơ trên mặt ruộng

khô. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật. Thế là: “Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại đội 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật **** nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt”. hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3.

Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng lên máy vô tuyến rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1km. Đêm tối như mực. Tay cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì? Bọn Pốt thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi dặng hắng: “Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được.

Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra, đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, dùng xẻng bộ binh làm búa, đóng cái thông nòng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu: “Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại: “Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không làm!”. “Ah! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.

Một chiều cuối tháng 2, có lệnh hành quân. Đơn vị sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đứng bám trên boong mũi cái tàu hộ tống, thấy oai hùng lắm! Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư hậu phương đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Đọc đi rồi đọc lại. Nước mắt lặng lẽ chảy…

Đêm đó tiểu đoàn ngủ trong các nhà hoang dọc bến cá. Sáng hôm sau, lĩnh đạn, gạo, đường, sữa…Vạ vật đến khoảng 14h chiều, chúng tôi lên xe tải, tới ngã ba lộ 5 quẹo trái theo lộ 27 tiến về ga Rômia. Xe chạy rì rì cuốn tung bụi đường, nồng nghẹt mũi. Lại những cánh đồng không khô xác. Cỏ cháy loang trên đồng, để lại từng đám tro đen xám loang lổ. Một vài ngọn núi đất thấp cũng khô xám như thế. Cây cối trên núi cũng cháy trụi cả, giơ lên trời những cành đen thui. Điểm trên khoảng trống bao la là những chòm thốt nốt lẫn cây bụi nhỏ, lúc hiện lúc khuất sau làn khói. Khung cảnh điêu tàn trông như hoang mạc.

Có tiếng đạn nhọn rộ lên nhằm thẳng vào đoàn xe. Tiểu đoàn để ba lô lại trên xe, nhảy xuống đất, theo đội hình chiến đấu càn tới. Các đại đội giạt sang hai bên ruộng, tiến song song bảo vệ. Tiểu đoàn bộ D4, C4 hỏa lực cùng một bộ phận tham mưu trung đoàn vẫn đi trên mặt lộ. Địch nã đạn nhọn liên tục về phía mấy cái xe. D bộ phải đi tụt lại, vì có tiếng xe ở đâu là nó bắn rát về phía ấy. Nhìn không thấy địch ở đâu vì khói cháy đồng mù mịt. Không dám tiếp cận thì chứng tỏ bọn này cũng nhát.

Một lát sau, thấy anh Sơn D trưởng quay lại hỏi chúng tôi còn một khẩu đội cối 82mm nữa đâu? Bọn tôi nói không biết. Anh ấy nổi nóng chửi cả tham mưu rồi bắt D bộ quay lại tìm. Thật may là chúng nó đi sau D bộ khoảng hơn 100m. Sau khẩu đội cối này lại có một đơn vị nữa cũng đang tiến gấp theo phía xa xa. Đại đội 2 đi trước. Hai đại đội 1 và 3 đi hai bên sườn. Khối D bộ, đại đội 4 và tham mưu trung đoàn cùng đoàn xe đi giữa. Vậy còn đơn vị nào đằng sau nữa đâu? Bỗng nhiên bọn đó bắn vào đội hình tới tấp, rồi giạt sang bên phải đường mất tích. Địch bâu bám đằng sau thật. Một trái M.79 câu trúng thùng cái xe chở ba lô. Không việc gì, xe vẫn chạy dù trên thùng bốc khói. Chúng tôi dũi lùi lũi giữa đội hình địch. Phát đạn duy nhất bắn đi là quả M.72 của một trợ lý tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Anh ấy mang nặng. Rút ra rút vào trái đạn mãi rồi phụt bớt đi cho nhẹ.

Cách ga Rômia 1km, đến một cái cầu cháy qua con mương cạn thì gặp trung đội chốt đường của đại đội 11 tiểu đoàn 6 ra đón. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình Phùng. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ Lý. Trên tay là khẩu B.41. Ngày hôm đó nó đã phải bắn tới 16 trái B.41 nên tai điếc, nói với nhau mà như quát. Thằng Hiệp nói rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu nữa, tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Thùng cái xe chở đồ bây giờ cháy ngún mù mịt. Chúng tôi nhảy lên xe quăng đồ xuống. Lúc đó nhiều cái ba lô đã cháy nham nhở. Các hộp sữa mới lĩnh ban sáng phồng lên, méo mó hết cả. Gần vào sát ga, tiểu đoàn vượt qua hai cái xe chở tử sỹ bị địch vây, không mang ra Kampong Ch’nang được. Anh em đơn vị bạn phải chặt cành lá phủ lên cho khỏi ruồi và tưới nước cho mát để đỡ mùi.

Chiều tối, tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm trung đoàn 42. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn, lo sốt vó chống địch. Bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn thì sướng quá! Còn bao nhiêu trà lá thuốc vét mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Chúng nó nói mấy đêm vừa qua, lính pháo phải đánh nhau như bộ binh vì địch nó đánh sát cả vào chân các khẩu đội. Pháo 105mm phải hạ nòng bắn ứng dụng như pháo bắn thẳng để uy hiếp địch cho nó giãn ra. Thằng Bình cáo C12D6 nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang tìm tôi. Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11 D6. Tiếng súng rộ lên. M.79 nổ choang choang trên các mái tôn. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường.

Đêm đó tôi với anh Ky nằm với đại đội 4. Chỉ huy phó đại đội 4 hoả lực hồi đó là anh Ninh, tên họ đầy đủ là Thái Gia Ninh, em ruột nhà thơ Thái Thăng Long. Sau này bọn tôi trong đơn vị khi được chia thịt heo hay thịt thú, cứ giả vờ hỏi nhau là bây giờ thịt thái ra ninh, thái ra nấu hay thái ra hầm...hả mày thì anh ấy cáu lắm, chửi vung mấy thằng xỏ lá. Nằm với đại đội hỏa lực, sát tiểu đoàn và pháo đội 105mm nên cứ yên tâm hưởng suất ấm sườn, đêm không phải gác. Một đêm ngủ thật ngon lành dù tiếng súng địch xung quanh không lúc nào ngừng...

Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas, cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng vàng cháy. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Trên sân ga, hàng cây me keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả me keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Bao quanh cái hạt là lớp thịt quả, ăn chơi thấy vị ngọt ngọt, có chút đắng. Nằm đó một lát, chúng tôi được lệnh đi về hướng sau ga,

nằm trong một vườn điều. Đất khô cát trắng, nhưng điều đang ra trái mọng. Vặt vài quả ăn chơi, thấy vị chua ngọt cũng đỡ, khỏi khát nước. Tôi cắn thử cái hột như hột đậu lớn treo dưới trái. Một tia dầu tứa ra dính vào môi. Cảm giác bỏng làm rộp phồng môi liền, rất rát. Toàn cồ thấy vậy cười hô hố. Anh Ky bảo phải nướng hạt lên mới ăn được, ngu thế!

Hướng tây ga Rômia là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang vận động tấn công địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng cản bước. Cứ “Bốp bốp…khục khục” nổ đâu đó suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.

Chúng tôi ăn cơm ở vườn điều. Buổi trưa cứ nằm im đó nghe tiếng súng nổ các nơi. Mãi đến chiều mới có lệnh tiến quân. Tiểu đoàn theo đường sắt lên hướng tây bắc 1 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Dưới lòng suối không có nước, toàn cát. Những con rùa bằng cái bi đông bò lổm ngổm. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối, định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc.

Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xe ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy. Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của VNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả

No documento Chuyện Lính Tây Nam - Xuân Tùng (páginas 63-100)

Documentos relacionados