• Nenhum resultado encontrado

BÁT ĐOẠN CẨM THỰC HÀNH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2021

Share "BÁT ĐOẠN CẨM THỰC HÀNH"

Copied!
19
0
0

Texto

(1)

1 1 BÁT ĐOẠN CẨM THỰC HÀNH

(TÔI ĐÃ THỰC HÀNH BÁT ĐOẠN CẨM NHƯ THẾ NÀO?) MỞ

Có lẽ mỗi người đến với “Bát Đoạn Cẩm” bằng những con đường khác nhau. Riêng tôi, tôi tìm hiểu và thực hành “Bát Đoạn Cẩm” như tìm một phương pháp luyện tập thể lực để chế ngự bệnh “Tiểu đường” mà tôi đã mắc phải từ tháng 7 năm 2008.

Đúng thế! Năm 2008 tôi phải nhập viện cấp cứu và phát hiện bị Tiểu đường type II. Theo lời khuyên của sách vở và một số bạn bè, ngoài việc ăn uống theo chế độ, tôi cần đi bộ và tập luyện một phương pháp thể dục nào đó. Cũng theo lời khuyên của một người bạn, tôi tìm đến môn “Bát đoạn cẩm”. Cuốn sách mà tôi đọc đầu tiên là “Tự luyện Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm” của G/s Hàng Thanh. Tôi thấy sách viết công phu nhưng và hấp dẫn tôi ngay từ những trang đầu tiên. Nhưng khi bắt đầu thực hành các động tác theo sách thì tôi chợt nghĩ không thể tự học phương pháp này nếu không có những hình ảnh minh họa sinh động và cụ thể hơn nhất là có một số từ trong các khẩu quyết mà tôi thấy chưa nắm bắt được. Chính vì thế tôi tìm thêm các tài liệu, hình ảnh trên mạng thông tin với mong muốn có thể tìm hiểu thêm về phương pháp luyện tập môn khí công này trong khi không tìm được một người thầy hướng dẫn. Vả lại tuổi không còn trẻ nên không có điều kiện tầm sư học đạo.

Trước hết tôi tìm thấy trên website http://thuvien-ebook.com và tôi đã tải được một tập tin mang tên batdoancam.rar. Sau đó giải nén thành file batdoancam.prc và đọc được dễ dàng với “mobilepocket reader”. Khi đọc tập tin này tôi thấy có rất nhiều điểm về từ ngữ rất lạ và tôi được biết tác giả là lương y Bàng Cầm và được lấy xuống từ ykhoa.net của BS Phan Xuân Trung. Tuy nhiên khi mở website của BS Trung thì “Bát đoạn cẩm – bài khí công giúp tăng tuổi thọ” là một trong những bài viết trong mục “Sức khoẻ người cao tuổi” được trình bày rất tốt theo tinh thần khoa học chứ không có nhiều khuyết điểm như bài “Bài khí công “BÁT ĐOẠN CẨM” của l/y Bàng Cầm 2 trong http://thuvien-ebook.com. Tôi rất nản chí và tiếp tục tìm kiếm thông tin trên mạng. Nhưng cuối cùng cũng tìm được các tập tin “video clip” trong youtube, đặc biệt là các tập tin minh họa của võ sư Phí Tường Trúc: http://youtube.com/phituongtruc và Lý Khải Vinh: http://360.yahoo.yahoo.com/khaivinhly. Xem các hình minh họa và đối chiếu với sách của g/s Hàng Thanh, tôi thấy nhi ều đi ểm khác nhau. Khi đọc sách của g/s Hàng Thanh tôi cũng đã biết được rằng có nhiều phương pháp luyện tập “Bát Đoạn Cẩm” khác nhau tập trung ở hai phái Đạo Gia và Phật Gia. Tuy nhiên tôi xem các video clip minh họa thì thấy hình như các bài minh

(2)

2 họa từ blog của võ sư Phí Tường Trúc có vẻ là những bài cải biên dễ tập hơn và các đ ộng tác liên hợp chặt chẽ với nhau hơn. Vả lại trong những “clip” minh họa đó còn nêu lên những lỗi có thể mắc phải khi tập và cả tác dụng của từng động tác. Bởi vậy tôi quyết thực hành theo các clip này. Nhưng còn khẩu quyết thì sao? “vọng hậu tiền”, “cố thận eo” là không hiểu được. Cuối cùng tôi tìm thấy văn bản của Tôn Tiểu Đậu trên mạng thông tin như sau:

站站站站站站锦锦锦

站站站站站锦锦锦 2007-11-27 19:13:34

站站站站站站站站Song thủ thác thiên lý tam tiêu 站站锦锦锦锦锦站Tả hữu khai cung tự xạ điêu 锦锦锦锦锦锦锦站Điều lý tì vị tu đơn cử

站锦锦锦锦锦锦站Ngũ lao thất thương vãng hậu tiều 锦锦锦锦锦锦锦站Dao đầu bãi vĩ khứ tâm hoả

锦锦锦锦锦锦锦站Toàn quyền nộ mục tăng lực khí

站站站站站锦锦站Lưỡng thủ phan (phàn) túc cố thận yêu 站站站锦锦锦锦站Bối hậu thất điên bách bệnh tiêu

Bài quyết này tôi tải từ website http://baike.baidu.com. Phần dịch âm là tôi ghi thêm. Tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu thêm về các câu khẩu quyết và có

nhận định như sau: Tuy tôi biết rằng cái quan trọng không phải là chữ nghĩa (lý thuyết) mà là phương pháp thực hành nhưng dù sao cũng c ần tìm hiểu rõ ràng về chữ nghĩa thì thực hành mới đúng được. Vả lại tự luyện tập thì phải nghiên cứu thật kỹ để tránh được càng nhiều càng tốt việc thực hành sai có thể mang lại hậu quả không lường được. Qua những “clip” minh họa tôi được biết Bát Đoạn Cẩm ngoài thế (站)dự bị và thế thu công có tám thế chính còn gọi là tám thức ( 站). Nay thử phân tích tám câu được gọi là tám thức của Bát Đoạn Cẩm (theo bài minh hoạ của Phí Tường Trúc):

Câu 1: Song thủ thác thiên lý tam tiêu (hoặc: “Lưỡng thủ kình thiên lý tam tiêu” không mấy khác biệt về ý nghĩa: Hai tay chống trời, chữa trị các bệnh thuộc tam tiêu: thượng tiêu (tâm, phế), trung tiêu ( tì, vị), hạ tiêu (can, thận). Tôi không hiểu tam tiêu là kinh tam tiêu như g/s Hàng Thanh đã hiểu mà là phủ tam tiêu. T ừ “lý” tôi không hiểu là “tưởng” đến như g/s Hàng Thanh mà hiểu là giải quyết (xử lý)

Câu 2: Tả hữu khai cung tự xạ điêu (Tay trái và tay phải dương cung tựa như bắn chim điêu)

Trong bài “Bài khí công “BÁT ĐOẠN CẨM”” lương y Bàng Cầm đã dịch: Tay trái, phải dương ra như xạ điêu bắn cung?

Trong phần minh hoạ “Thiếu Lâm Bát Đoạn Cẩm” do Lý Khải Vinh tải lên mạng thì thấy ghi là: Tả hữu lập cung tự xạ điêu và động tác hơi khác với phần

(3)

3 minh hoạ do Phí Tường Trúc tải lên mạng. Tuy nhiên ý nghĩa thì không mấy khác biệt.

Câu 3: Điều lý tỳ vị tu đơn cử (Chữa trị các bệnh thuộc Tì và Vị cần giơ từng tay một). G/s Hàng Thanh và Lương y Bàng Cầm đều ghi là: Điều lý tì vị đơn cử thủ (có lẽ l/y Bàng Cầm chỉ chép lại từ bản của g/s Hàng Thanh). Tuy nhiên về ý nghĩa cũng không mấy khác biệt quan trọng.

Câu 4: Ngũ lao thất thương vãng hậu tiều (Ngó về phía sau để trị năm chứng mệt nhọc và bảy chứng tổn thương). G/s Hàng Thanh ghi: “... vọng hậu tiền” (chắc chắn là sai). L/y Bàng Cầm ghi là “...vọng hậu tiều” (đúng hơn, nhưng: đã “vọng” lại còn “tiều”!). Cũng có sách ghi “hướng hậu tiều” coi như có lý.

Câu 5: Dao đầu bài vĩ khứ tâm hoả (Lay chuyển đầu phô bày đuôi tâm hoả ra đi) Đầu là đầu. vĩ là đuôi nhưng người thì không có đuôi. Vậy không hiểu người xưa muốn nói gì. Hay muốn hình tượng hoá động tác giống như một “con rồng”? Theo gs/ Hàng Thanh thì là rắn chứ không phải rồng. Cái quan trọng là trong động tác này cần di chuyển chỉ phần thân trên. Và quan trọng hơn cả là động tác này có tác dụng “khứ tâm hoả” nghĩa là làm tan biến tâm hoả. Theo quan niệm xưa Tâm (tim) thuộc hành hoả. Khi nóng giận hoả bốc làm hại Tâm. Vậy động tác này có tính an thần. Theo như bài của lương y Bàng Cầm thì tác dụng của động tác này là: Làm tăng lượng máu lưu thông, mất tính nóng nảy vì thiếu máu. Làm máu lưu thông thì có thể hiểu còn như “tính nóng nảy do thiếu máu thì hơi khó hiểu. Về thứ tự thì trong minh hoạ của Lý Khải Vinh ghi câu này là đoạn 7 chứ không phải là đoạn

Câu 6: Lưỡng thủ phan (phàn) túc cố thận yêu (Hai tay kéo (nắm) chân thận lưng được củng cố (làm cho thêm mạnh). Câu này được lương y Bàng Cầm xếp vào đoạn 8 và được dịch: Hai tay phang xuống chân, bền thận và giữ eo. Cái này thì, theo tôi là đại hài hước!

Câu này trong phần minh hoạ của Lý Khải Vinh thì được xếp vào đoạn thứ 8 và ghi là: Song thủ ban tất cố thận yêu ( vẫn hợp lý)

Câu 7: Toàn quyền nộ mục tăng khí lực (Tay nắm đấm chặt trợn mắt như nổi giận khí lực được tăng thêm) Câu này trong bài minh hoạ của Lý Khải Vinh được xếp vào đoạn thứ 5 (câu 8 là đoạn 6)

Câu 8: Bối hậu thất điên bách bệnh tiêu (Sau lưng bảy lần giậm gót trăm bệnh tiêu tan).

Tuy chưa tra cứu để hiểu rõ nghĩa của từ “điên” ở đây nhưng căn cứ vào hình ảnh minh hoạ của Phí Tường Trúc thì là giậm gót chân. Có lẽ ý nghĩa của chữ “điên” ở đây là nghiêng ngả. Vì ki ễng chân lên người dễ bị ngả về phía trước. Cho nên phải nghiêng ngả để giữ thăng bằng và giậm gót để chấm dứt sự mất

(4)

4 quân bình. Còn tại sao lại “bối hậu” thì có lẽ là tư thế hay nghiêng phía trước nên cần lưu ý giữ lưng thẳng phía sau. Trong hình minh hoạ “Võ học Thiếu Lâm Bát Đoạn Cẩm” của Lý Khải Vinh thì hai tay lại ấn đầu xương cùng nơi huyệt “yêu du”, “trường cường (“Tự luyện Bát Đoạn cẩm” của g/s Hàng Thanh cũng quan niệm như thế). Trong Võ học Thiếu Lâm ghi: Bối hậu khởi điểm giả bệnh tiêu chứ không phải “Bối hậu thất điên bách bệnh tiêu” nên ấn đầu xương cùng là phù hợp.

Đây chắc hẳn là cái “Biến của “Quyền”. Cũng vì vậy trong thức thứ 6 minh hoạ của “Võ học Thiếu Lâm” của Lý Khải vinh cũng rất khác so với bài minh hoạ của Phí Tường Trúc (thức thứ 8). Vì “Bát Đoạn Cẩm” là một phương pháp luyện tập khí công dưỡng sinh nên sau khi tìm hiểu về ý nghĩa của các khẩu quyết tôi cũng cố gằng tìm hiểu xem “khí công dưỡng sinh” là gì? Tôi có đọc qua “Khí công sức khỏe và điều trị” của B/s Ngô Gia Hy và L/y Bùi Lưu Yêm _ Nhà xuất bản Long An (1988). Sau đó tôi được đọc bài viết trên Website của B/s Kỳ Nam: Sưu Tầm về khí công dưỡng sinh của tác giả Vũ Đức Hiền Âu. Tôi thấy bài viết có chất lượng và phù hợp với những kiến thức khoa học hiện đại. Do đó tôi rất tâm dắc bài viết này. Nay tôi xin được trích nguyên văn bài viết thay vì phải biên soạn trong khi tôi chưa được học một cách bài

bản về khí công.

KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH là gì? I. Khí công là gì?

"Khí" người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật Bản, Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất Hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ, tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số l ượng của nó. "Công" do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian. Do đó, "khí công" có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí" (oxygen) được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.

Trong võ thuật cổ truyền đông phương, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.

(5)

5 Trong ý nghĩa quân bình hơi thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diên loài người trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương, khí công đã được áp dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn học: Y học, Đạo học, và Võ học. Theo Hoàng Đế Nội Kinh (2697 – 2597 B.C. trước Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây lịch), nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.

Vào thời nhà Thương (1783 – 1122 B.C trước Tây lịch), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.

Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề cập đến vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 – 221 B.C. trước Tây lịch). Sau đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến 220 A.C. sau Tây l ịch), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vì y sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.

Vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và Chim.

Vào năm 520 – 529 sau Tây lịch, tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài đã soạn ra sách Dịch Cân Kinh1, để dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng sức mạnh trong việc luyện võ. Về sau, dựa vào nguyên lý khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...

Theo truyền thuyết, vào triều đại nhà Tống (950 – 1279 sau T.L.), tại núi Võ Đang, đạo sĩ Trương Tam Phong sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực Quyền, gồm những động tác giúp người tập luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.

(6)

6 Nói đến “Dịch Cân Kinh” người ta thường nghĩ ngay đến cách luyện t ập “vẫy tay” rất phổ biến tại VN trong thời gian qua. Dịch cân kinh thực sự là tên tắt của “Dịch cân tẩy tuỷ kinh”, gồm 12 thức và sự luyện tập cũng không quá đơn giản. Còn “Dịch cân kinh” “vẫy tay” là của m ột ng ười Việt tự nhận là bác sĩ Lê Quốc Khánh “sáng tạo” không m ấy đáng tin cậy. Chúng ta nên tìm hiểu kỹ hơn trong bài viết của b/s Trần Đại Sĩ trình bày trong Đại hội Y khoa Châu Âu ngày 14-10-2001 (tìm trên mạng thông tin).

Về sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ, ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền thuộc ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và Vũ Gia, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục Hợp Bát Pháp Quyền...

III. Triết Lý Khí Công

A. Vũ trụ quan

Theo quan niệm Đông phương, khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận. Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:"- Khí tụ lại thành hình, khí tán đi hình loại, muôn v ật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh, Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "-Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.

Hai tính chất căn bản là Âm và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.

Thiên Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp

cho đại vũ trụ thiên nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió th ổi,

(7)

7 mưa rơi, bão tố, sấm sét... xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.

"Địa Khí đến từ quả đất, cũng như từ sự thấm nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên những tai họa động đất, chính là nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô c ằn,

nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất quân bình âm dương tính trong địa khí.

"Nhân Khí" là sinh lực con người. Con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.

B. Nhân Sinh Quan

Con người khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài nhi bi ết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sẵn có trong hài nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận: tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch, nước uống và thực phẩm (động vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: Tim, phổi, 10 bao tử, lá mía, ruột già, ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)

Với tuổi thọ tăng dần, các đường ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.

(8)

8 Để tái tạo sức khỏe bình thường, việc khai thông hệ thống kinh mạch, cũng như, quân bình Âm Dương tính trong nguồn sinh l ực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Từ điểm này, Đông Y Học đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốc hóa học ở các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và thể dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...

Trong phép dưỡng sinh, người ta cần phải biết sống hòa hợp với luật thiên nhiên, để khai thác tối đa lợi thế c ủa Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ quân bình âm dương tính cho Nhân Khí của con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ các mầm mống bệnh chứng, có thể xảy ra cho con người.

Ngoài ra, việc tập luyện khí công rất ích lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể, cũng như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí và Địa Khí từ bên ngoài.

IV.Phương Thế Thực Hành

Trong khí công gồm có ba loại thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một trong ba tư thế chánh yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm.

Trong mỗi tư thế chánh này còn được chia ra làm nhiều tư thế phụ như sau: - Với tư thế đứng còn có thế đứng tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân dang rộng ra hai bên trái, phải).

- Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ gối.

- Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng người với lưng tựa phía dưới.

Trong các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi của tư thế đứng:

- Tư thế đứng rất thuận tiện, khi tập ở những nơi công cộng, ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....

- Tư thế đứng còn giúp cho máu lưu thông dễ dàng trong h ệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể. - Ngoài ra, tư thế đứng tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.

(9)

9 V. Hiệu Quả Của Khí Công

Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động của nhiều triệu mao quản bị đình trệ, và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể.

Trong phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép kiêng cữ, cơ thể tái tạo sức khỏe bình thường cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu, bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh nhức đầu, bệnh nhức mỏi khớp xương và bắp thịt... Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm hồn thanh tịnh, và bình tĩnh để có một đ ời sống tình cảm an hòa, khắc phục được những trở ngại bất thường trong đời sống hàng ngày. Để đạt được thành quả trong lúc tập luyện khí công, tùy theo hoàn cảnh, học viên nên tuân hành

nghiêm chỉnh theo một thời dụng biểu tập luyện đều đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi, từng bước một, tuần tự tiến hành. Nếu vội vã, đốt giai đoạn tập luyện, sức khỏe của học viên dễ bị tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn thận tránh những khuyết điểm. Việc tập luyện sai phép có thể tạo nên những biến chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc tập luyện.

HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG Ý NIỆM VỀ KHÍ:

Đối với người Tây phương, "Khí" được hiểu bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy, Life Force, Bio-Force, Electromagnetism... Cũng như "Animal Magnetism" ở Úc châu do Mesmer, "Odic Force" ở Đức do Baronvon

Reichenbach, "Orgone Energy" ở Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga Sô do Inyushin.

"Khí" (Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, năng lực tinh thần,...

Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật hoạt động sinh ra khí. Cũng như, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng. Cơ năng quyết định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan sinh hoạt biến thành cơ năng. Nhà khoa học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = mc 2. Năng lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và khối lượng vật chỉ là

(10)

10 một, nhưng thể hiện dưới hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra.

Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu tố và điều kiện sống chung quanh (như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã hội...), nguồn năng lực (khí) trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong đời sống hàng ngày, nguồn năng lực (Khí) đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực (Khí) con người. Qua tiến trình hô hấp không khí, dưỡng khí (oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon dioxide), và nước, theo phương trình hoá học như sau:

Food + Oxygen ⇒ Energy + Carbon Dioxide + Water

(Đồ ăn) + (Dưỡng khí) ⇒ (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước)

Năng lực (khí) được sinh ra từ phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ, và các bộ phận trong cơ thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí) sung mãn, trong đời sống khỏe mạnh, ngoài hai yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí (Oxygen) (trong không khí trong lành), và thức ăn tươi tốt (đầy đủ chất dinh dưỡng), người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác, không kém phần quan trọng như: nước uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí quân bình, và vận động thể dục...

HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG:

Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người.

Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao l ực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp (hít thở) không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể.

Hơi thở của một người khỏe mạnh bình thường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hoi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không

(11)

11 ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh, trong một linh hồn minh mẫn.

Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi thở của họ thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, để đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài. Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhi ều khó khăn. Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh bình thường.

Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện khí công, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào) càng lúc c ần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoạn tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào) trong một phút.

Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồi thiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài trong 30 phút. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan điền).

BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG:

Đối với học viên mới nhập môn khí công, điều quan trong nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đế tiến trình hô hấp của con người như sau:

Nhiệm vụ của phổi:

Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miệng, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong lồng ngực, và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy. Lá phổi bên trái có hai thùy. Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào).

(12)

12 Bên trong mỗi lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí (Khí bào), chia thành nhiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co dãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi nhò khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí

(oxygen) và thải trừ thán khí (carbon dioxide) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxide).

Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, di ện tích c ủa nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt.

Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong lồng ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.

Vai trò hoành cách mô:

Thân người được chia làm hai phần: phần trên là lồng ngực, phần dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một "Hoành Cách Mô" (một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co dãn của lồng ngực và hoành cách mô đã đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí.

Lồng ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phổi bắt đ ầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn. Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho lồng ngực được căng phồng lên. Do đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dãn nở lớn tối đa của lồng ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi.

Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan Điền), khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, khiến cho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4 phân (centimeters). Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không

(13)

13 khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá ph ổi, dãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích c ực, đ ể có một sự dãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxide) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi.

Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho đôi dây thần kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh.

Không khí được thở ra là buớc sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên. Đồng thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài.

( sưu tầm từ "Khí Công Dưỡng Sinh" của Vũ Đức Hiền Âu) TÔI ĐÃ TỰ LUYỆN BÁT ĐOẠN CẨM NHƯ THẾ NÀO?

Trước kia, khi còn trẻ, tôi đã tập thể dục theo phương pháp nổi tiếng của Thụy Điển: phương pháp của Weirheim (môn thể dục không dùng dụng cụ). Với phương pháp Weirheim tôi đã biết lúc nào lây gân và lúc nào không. Cũng như khi đọc sách của g/s Hàng Thanh tôi cũng biết chút ít thế nào là tập trung luyện khí và thế nào là tập trung dùng lực. Nhưng theo tôi không nhất thiết trong một thức (thế) là tất cả đầu dùng lực hay dùng khí. Nó biến chuyển rất tinh vi

thường là theo sự tự nhiên của cơ thể.

Tôi bắt đầu luyện tập theo các câu khẩu quyết của “Tôn Tiểu Đậu”. Tuy nhiên tôi thay đổi thứ tự các câu, trước hết cho đúng luật bằng trắc và trình tự luyện tập cũng có vẻ hợp lý hơn. Về hình thức (động tác), tôi theo các bài minh họa của Phí Tường Trúc đồng thời phối hợp với cách thở của Weirheim (những động tác co (tay, chân hoặc mình) thì thở ra và ngược lại thì hít vào. Cũng theo lời khuyên của tác giả Vũ Đức Hiền Âu, tôi luyện tập từ từ và nghe ngóng tác dụng có tốt không: có thức tôi tập cả ba tháng mới thấy hình như khá đúng. Cứ như thế đến nay hơn hai năm tôi đã có thể tập mỗi bu ổi liên tục 8 thức với thời

(14)

14 lượng trên dưới 10 phút. Tôi cũng phối hợp với phương pháp ngồi tập thở theo sách hướng dẫn của B/s Ngô Gia Hy

Tôi thấy trong người khỏe ra và ngày càng thấy kiểm soát được chứng bệnh Tiểu đường, kết quả xét nghiệm máu, tiểu rất tốt. Tuy thời gian trên hai năm chưa đủ để kết luận hoàn toàn ki ểm soát được chứng bệnh này nhưng dù sao cũng thấy có thể nên phổ biến kinh nghiệm cùng mọi người để may ra tìm được một phương pháp chung tốn ít thời gian mà thống trị được một chứng bệnh khá phổ biến hiện nay. Tôi xin chi tiết hóa quá trình luyện tập Bát Đoạn Cẩm. Ngoài 8 thức chính, cũng như bất cứ môn luyện tập nào, Bát Đoạn Cẩm còn có thức dự bị và thức thu công nữa

Dự bị thức:

Thức dự bị là những động tác chuẩn bị để bước vào thức thứ nhất.

1- Động tác chuẩn bị: đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, hai tay xuôi theo bên hông, chân khép.

2- Động tác 1: chân trái bước qua trái khoảng cách bằng ngang vai.

3- Động tác 2: tay dang hai bên 45o so với mặt đất, bàn chân hướng trước. 4- Động tác 3: khung tay về trước bụng, khuỵu gối xuống một chút.

5- Thở tự nhiên từ 8 đến 10 lần.

Những sai sót cần tránh khi tập thức dự bị: khi khụyu gối không thấp quá luôn để ý hai đầu gối không vượt ra ngoài các đ ầu ngón chân; thân mình phải ngay thẳng không khom, không ngửa, hai bàn chân song song nhau không đặt chân giống hình chữ bát ( 站) cũng không cong các ngón vào trong.

ĐỆ NHẤT THỨC : Song thủ thác thiên lý tam tiêu.

1- Tư thế chuẩn bị: sau thi hoàn tất thức dự bị, sau khi thở sâu 8-10 lần. 2- Động tác 1: hai bàn tay đan vào nhau.

3- Động tác 2: từ từ nâng hai bàn tay ngang ngực, đồng thời thẳng gối lên. 4- Động tác 3: tiếp tục nâng tay, ngửa cổ xoay dần lòng bàn tay lên trên. 5- Động tác 4: xoay cổ nhìn về phía trước, các bộ phận khác không chuyển. 6- Động tác 5: hai bàn tay rời nhau từ từ trở lại vị trí ban đầu (vòng tay, gập gối )... Thực hiện từ 6 đến 9 lần.

Ý nghĩa & tác dụng: Hai tay nâng trời, bình ổn tam tiêu: thượng tiêu (tim,

phổi); trung tiêu (lá lách, bao tử); hạ tiêu (gan, thận) Điều hòa khí huyết, bổ lục phủ ngũ tạng. Ổn định tiêu hóa, tuần hoàn.

(15)

15

Những sai sót cần tránh khi tập đệ nhất thức : cũng như các thức khác, thân

mình luôn ngay ngắn, hai bàn chân song song. Đệ nhị thức: Tả hữu khai cung tự xạ điêu. 1- Tư thế ban đầu: sau khi chấm dứt thức thứ nhất.

2- Động tác 1: bước rộng qua trái, hai bàn tay đan chéo trước ngực.

3- Động tác 2: gối khuỵu xuống, đồng thời bàn tay trái “chưởng” qua trái (ngón trỏ thẳng, các ngón còn lại cụp. Bàn tay phải “trảo” (các ngón đều cụp) kéo ngang ngực tưởng tượng như kéo dây cung, đầu quay trái mắt nhìn ngón trỏ trái. 4- Động tác 3: đứng lên dồn trọng lực qua phải, hai bàn tay cùng “chưởng”, quay đầu qua phải, từ từ khép chân tay trở lại vị trí bình thường. Đổi bên, lặp lại, mỗi bên từ 6 đến 9 lần rồi trở lại vị trí ban đầu.

Ý nghĩa & tác dụng: Tay trái, tay phải dương cung như bắn chim điêu. Làm

mạnh cơ tay, vai, lưng, cổ.

Điều cần lưu ý khi thực hiện đệ nhị thức: Ở bước 1 khi đan chéo hai bàn tay

trước ngực cần lưu ý khi nào tay phải ở trên, khi nào tay trái ở trên : tay nào sẽ dương dây cung (trảo) thì tay đó phải ở dưới để tay còn lại dễ thực hiện chưởng (ngón trỏ thẳng) .

Đệ tam thức: Điều lý tỳ vị tu đơn cử. ( hoặc: Điều lý tì vị đơn cử thủ) 1- Tư thế ban đầu: Sau khi kết thúc thức thứ hai trở về tư thế ban đầu

2- Động tác 1: tay trái đưa lên đầu, lòng bàn tay từ từ xoay ngửa lên trên đồng thời tay phải kéo ngang sườn, không đụng thân mình, bàn tay úp xuống dưới, đồng thời thẳng gối lên (hai tay và gối thực hiện cùng một lúc).

3- Động tác 2: hai tay trở về vị trí ban đầu, đồng thời khuỵu gối xuống. Lặp lại, đổi bên. Mỗi bên thực hiện từ 6 đến 9 lần rồi trở lại vị trí ban đầu.

Ý nghĩa & tác dụng:

Điều lý tì vị cần nâng cao từng tay một. Tăng cường sinh hoạt cho tì (lá lách), vị (bao tử). Tác dụng rất tốt với bệnh tiểu đường.

Điều cần lưu ý: hai tay và gối cùng làm động tác và động tác hai tay khác nhau.

Khi giơ tay lên cao thân hình phải thẳng, m ắt ngó ngay. Nếu phối hợp với hơi thở thì lúc này chính là lúc hít hơi vào và khi trở về tư thế chuẩn bị là lúc thở ra. Đệ tứ thúc: Ngũ lao thất thương vãng hậu tiều. (hoặc hướng hậu tiều)

(16)

16 2- Động tác 1: hai tay dang ra hai bên và ra sau, đồng thời quay cổ qua trái, mắt nhìn tay trái, đồng thời thẳng gối lên (hai tay, cổ, gối thực hiện cùng một lúc thật mềm mại).

3- Động tác 2: trở về vị trí ban đầu. Tay, cổ và gối cùng thực hiện một lúc. 4- Động tác 3: Thực hiện như động tác 1 nhưng đầu cổ quay về bên phải (đổi bên).

5- Động tác 4: Trở về vị trí ban đầu sau khi thực hiện mỗi bên 6 đến 9 lần

Ý nghĩa & tác dụng:

Liếc mắt về phía sau giải quyết được ngũ lao thất thương

Ngũ lao: 5 cái mệt của ngũ tạng: Tâm Can, Tì, Phế, Thận do lạm dụng ăn uống hoặc làm việc quá sức.

Thất thương: 7 thứ tổn thương do căng thẳng thần kinh hoặc phạm tà khí.

Điều cần lưu ý: Khi dang hai tay và đưa ra sau thì tập trung vào hai bả vai, còn hai cánh tay thì để tự nhiên (không lấy gân).

Đệ ngũ thức: Dao đầu bãi vĩ khứ tâm hỏa.

1- Tư thế ban đầu: sau khi thực hiện thức thứ tư trở về tư thế sau:

2- Động tác 1: dồn trọng tâm về trái, bước rộng qua phải, hai tay đưa lên ngực rồi từ từ đưa lên đầu, đồng thời từ từ thẳng gối lên.

3- Động tác 2: cùng một lúc khuỵu gối xuống nửa ngồi và vòng tay xuống đùi cạnh bàn tay phía ngón út hướng về phía trước, lưng thẳng, mắt nhìn thẳng phía trước.

4- Động tác 3: chuyển trọng tâm qua phải, toàn thân trên gập sát đùi phải, cánh tay phải gấp, cánh tay trái duỗi thẳng.

5- Động tác 4: lấy xương khu làm tâm điểm, xoay toàn thân trên qua đùi trái. 6- Động tác 5: trở về trước động tác 3

Lặp lại động tác 3, 4 nhưng đổi bên (gấp thân mình về đùi trái, xoay qua đùi bên phải...) Thực hiện mỗi bên từ 6 đến 9 lần rồi trở về vị trí sau:

Ý nghĩa & tác dụng: Chuyển đầu lắc đuôi làm tan khí tâm hoả. Làm mát người,

bớt nóng nảy, ngăn ngừa tai biến mạch máu não.

Điều cần lưu ý: chú ý bàn tay ở các động tác thực hiện thật đúng (luôn hướng

xuống mặt đất). Khi xoay thân trên phải trụ vững. Đệ lục thức: Lưỡng thủ phan túc cố thận yêu.

(17)

17 2- Động tác 1: từ từ giơ hai tay lên ngang ngực, rồi giơ thẳng lên trên đầu đồng thời thẳng gối lên.

3- Động tác 2: từ từ ngửa lòng bàn tay ra rồi từ từ đưa xuống ngang ngực rồi ra sau lưng.

4- Động tác 3: vừa gập mình vừa dùng hai tay vuốt từ lưng xuống mông, đùi, ống chân, bàn chân Lưu ý không được cong chân

5- Động tác 4: vươn thẳng hai tay ra phía trước rồi từ từ đứng thẳng lên. Lặp lại các động tác 2, 3, 4 cho đủ từ 6 đến chín lần rồi trở về vị trí sau.

Ý nghĩa & tác dụng: Hai tay kéo chân củng cố cho thận và lưng. Làm khoẻ cơ

lưng, cơ bắp chân,

Điều cần lưu ý: khi cúi gập người nhưng không cong khớp gối, tập trung vào

cơ bụng, làm tan mỡ bụng. Thức này rất giống phương pháp tập bụng của Tây phương.

Đệ thất thức: Toàn quyền nộ mục tăng lực khí. 1- Tư thế ban đầu: hoàn tất thức 6 ta có tư thế như sau:

2- Động tác 1: dồn trọng tâm cơ thể qua phải, bước một bước lớn qua trái, xuống trung bình tấn trong khi hai bàn tay nắm chặt ngang hông (quyền). 3- Động tác 2: đấm mạnh tay trái tới trước, đồng thời mắt trợn lộ vẻ giận dữ. 4- Động tác 3: xoè bàn tay trái xoay lòng bàn tay ra phía ngoài.

5- Động tác 4: ngửa bàn tay ra phía trước, xoay cổ tay gần 270o 6- Động tác 5: nắm tay thu quyền về ngang hông.

Lặp lại các động tác 2, 3, 4, 5 cho tay phải. Tổng cộng 6-9 lần mỗi bên tay. Chú ý: Sau khi hoàn tất khép chân, hai tay buông xuôi theo thân mình.

Ý nghĩa & tác dụng:

Tay nắm chặt, trợn mắt lộ vẻ giận dữ làm tăng khí lực. Làm tăng sức mạnh cho gan và do đó làm mạnh gân cốt cho toàn cơ thể, làm mát gan.

Điều cần lưu ý: Tuy nói trợn mắt l00i vẻ giận dữ nhưng không được nhăn nhó.

Đệ bát thức: Bối hậu thất điên bách bệnh tiêu.

1- Tư thế ban đầu: sau khi hoàn tất thức thứ 7 ta có tư thế sau:

2- Động tác : kiễng hai gót chân lên, giữ thân mình vững vài giây, giậm gót xuống. Thực hiện từ 7 đến 9 lần.

(18)

18

Ý nghĩa & tác dụng: Giậm gót bảy cái, trăm bệnh tiêu trừ. Làm mềm dẻo cơ

bắp chân, giúp giữ thăng bằng cho cơ thể, làm cho dáng đi đứng vững vàng, tránh những di chứng của bệnh tật.

Điều cần lưu ý: khi chuẩn bị giậm gót thân hình phải thật thăng bằng, cổ như

treo lên chớ không được co rụt cổ. Thu công thức

Sau khi thực hiện hết tám thức ta phải thu công. Thế thu công làm cho cơ thể dần dần trở lại với bình thường. Trong các phép khí công dưỡng sinh thì thu công vô cùng quan trọng không nên coi thường. Thu công giúp chúng ta tránh ngưng tập luyện một cách đột ngột. Cũng như khi các vận động viên vừa chạy hết tốc lực, nay dừng l ại đột ngột thì rất nguy hiểm.

Động tác:

- Dang hai tay ra hai bên rồi đưa về trước bụng, bàn tay phải úp lên bàn tay trái. Có sách phân biệt nam tả nữ hữu nhưng theo thiển ý thì không nhất thiết.

- Thở sâu từ tám đến mười lần. Xong chà xát hai lòng bàn tay vào nhau cho nóng.

- Cuối cùng dùng hai bàn tay xoa vuốt khắp mặt để kết thúc bài thực hành. Bạt

Tuy hiện giờ mỗi ngày tôi vẫn tập liên tục các thức trên trong vòng 10 phút (mỗi thức tôi chỉ tập 8 lần) nhưng lúc mới bắt đ ầu thì không phải thế mà tôi đã tập riêng từng thức. Những thức đầu tiên tôi tiến hành rất chậm: mỗi thức ít nhất là một tuần mới tạm thuần. Có thức (như thức thứ 5) tôi đã phải tập một tháng ròng mới thấy hơi ổn. Thế rồi sau khi thuộc các thức đến lúc tập liên tục được lại là một quá trình phức tạp vô cùng. Thế nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn vừa tập vừa nghe ngóng, kiểm tra lại. Thế mà thỉnh thoảng vẫn phát hiện ra nhiều chỗ chưa thông. Tự học một môn khí công dưỡng sinh quả thật rất khó khăn. Mặc dầu cố gắng diễn đạt kèm theo hình ảnh minh họa rút ra từ các video clip được tải về từ blog của võ sư Phí Tường Trúc ( không biết rõ nguồn của những video clip này), nhưng chúng tôi tự nhận thấy vẫn rất khó khăn cho các bạn tự tập luyện các động tác của Bát Đoạn Cẩm. Theo tôi nghĩ, tốt nhất các bạn có tâm nghiên cứu môn khí công tốn ít thời gian mà hiệu quả cao này nên xem thêm các “video clip” do võ sư Phí Tường Trúc đưa lên mạng thông tin. Tôi nhờ các video clip này rất nhiều trong tập luyện. Phải nói thẳng nếu không có những video clip này mà chỉ xem sách thì không thể nào tôi dám luyện tập môn khí công này trong khi không có người hướng dẫn. Tôi xin nhắc lại:

(19)

19 ktdao2004@yahoo.com. Sau cùng xin chân thành cảm ơn các vị đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu đ ể tôi được tiếp cận với Bát Đoạn Cẩm: võ sư Phí Tường Trúc, Lý Khải Vinh, G/s Hàng Thanh, Vũ Đức Hiền Âu... những vị thầy mà tôi chưa hề biết mặt và xin thông cảm cho về những gì các vị chưa hài lòng. Cũng xin thông cảm với người biên soạn bất đắc dĩ này chỉ mong giúp được những người chưa tìm được cách đơn giản để chế ngự bệnh tật ngoài ra không nhằm vào một lợi ích gì cho cá nhân dù là vật chất hay tinh thần nào khác.

Referências

Documentos relacionados

Về thực chất, đây là một quá trình tự động điều khiển các hoạt động của máy (như các máy cắt kim loại, robot, băng tải vận chuyển phôi liệu hoặc chi tiết

Để có mặt chính thức ở thị trường Việt Nam, các dòng sản phẩm phân bón hữu cơ sinh học của Công ty Ajinomoto Việt Nam phải trải qua rất nhiều nghiên cứu

Với nội dung giáo trình này nhàm giúp sinh viên hiểu được thành phần hóa học của nguyên liệu thủy sản có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong quá trình chế

Thêm vào pha động điện di một chất phụ gia có nồng độ thích hợp. Chất này phải có ái lực hấp phụ mạnh với thành mao quản, để khi chạy điện di thì chất này sẽ phủ lên

Chính việc áp dụng mạnh mẽ công nghệ gen trong sản xuất các protein trị liệu đã làm cho công nghệ sinh học dược trở thành động lực chính

Quá trình oxyhóa là những quá trình chuyển hóa glucid dưỏi tác dụng của vi sinh vật hô hấp hiếu khí. Các quá trinh oxyhóa các hợp chất này có ý nghĩa

trong vòng 10 phút mà áp su ất của hệ không thay đổi thì có thể coi hệ nghiên cứu là kín và có thể tiến hành thí nghiệm:.. Cho nướ c chảy vào

3/ Sự chuẩn độ chính xác đối với các chất acid béo tự do có thể chiết được và những tạp chất không xà phòng hóa có thể chiết được (cả hai đều qui về acid