• Nenhum resultado encontrado

Demian - Tuổi Trẻ Băn Khoăn - Hermann Hess

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2021

Share "Demian - Tuổi Trẻ Băn Khoăn - Hermann Hess"

Copied!
89
0
0

Texto

(1)

TUỔI TRẺ BĂN KHOĂN

HERMANN HESS

Prologue

Tôi không thể kể câu chuyện đời mình mà không nhìn lại quá khứ. Nếu có thể tôi muốn quay trở về xa hơn nữa, về những năm tháng đầu của tuổi thơ tôi, và tiếp tục hướng về nguồn gốc. Các nhà văn, mỗi khi họ đặt bút sáng tác thường sẽ tự coi mình như ơn trên của nhân vật, tự coi mình thấu hiểu toàn bộ cốt truyện hay cuộc đời của một con người. Để rồi sau đó, tựa như chính Đức Chúa, họ có thể kể lại câu chuyện đó. Không có gì ngăn cách giữa họ và sự thật, từng chi tiết nhỏ của câu chuyện đều chứa đầy ý nghĩa lớn lao.

Tôi thì không có khả năng tiếp bước các nhà văn ấy, dù cho câu chuyện đời tôi quan trọng với tôi còn hơn những tác phẩm kia với người cha đẻ của nó. Bởi đây là câu chuyện của chính bản thân tôi, câu chuyện của một con người, không phải của một nhân vật được sáng tạo ra, được lý tưởng hóa, có thể tồn tại hoặc không tồn tại ngoài đời thực, mà là của một con người độc nhất, bằng xương bằng thịt. Nhưng, con người ta ngày nay, so với bất kỳ thời đại nào ngày trước, dường như không thấu hiểu những yếu tố thực sự tạo nên loài người. Vì thế từng con người đại diện cho từng khía cạnh độc nhất và đáng giá về bản chất ấy, đều bị bắn bỏ. Nếu như chúng ta không là những cá thể độc nhất vô nhị, nếu như chúng ta ngã xuống và ra đi chỉ sau một phát súng, việc kể chuyện thật chẳng còn nghĩa lý gì nữa cả.

Nhưng mỗi con người đều không chỉ biết về mỗi bản thân mình. Họ còn là hiện thân cho những sự giao hòa độc nhất vô nhị, đặc biệt và phi thường của hàng bao sự việc hiện tượng trên thế giới, chỉ xảy đến cùng nhau một lần và không bao giờ lặp lại. Chính vì vậy, câu chuyện của mỗi người đều quan trọng, thiêng liêng và vĩnh cửu; chính vì vậy mà mỗi con người, chừng nào còn sống và hoàn thành tâm nguyện của bản thân, đều rất đỗi tuyệt vời và xứng đáng được nhắc đến. Trong mỗi người, linh hồn đã trở thành thể xác, trong mỗi cá thể, sự sáng tạo phải nếm trải đắng cay, và trong thâm tâm họ luôn hiện hữu hình ảnh Chúa Cứu Thế bị ghim trên thánh giá. Ngày nay, không mấy ai hiểu rõ bản chất con người. Nhiều người ý thức được sự ngây ngô thiếu sót ấy và bởi thế, ra đi càng nhẹ nhàng hơn, cũng giống như tôi sẽ

(2)

chết đi dễ dàng hơn chút ít khi câu chuyện đi đến kết thúc vẹn toàn. Tôi chẳng dám vỗ ngực nhận mình thông minh hơn nhân loại. Tôi đã và vẫn đang đi tìm kiếm câu trả lời, nhưng tôi đã không còn dựa dẫm vào chiêm tinh và sách vở. Thay vào đó, tôi bắt đầu nghe theo những lời răn dạy thì thầm tận sâu trong tiềm thức.

Câu chuyện của tôi không hề dễ chịu. Nó không ngọt ngào mà cũng chẳng hài hòa như những câu chuyện hay được người ta chắp bút. Câu chuyện của tôi có phần vô nghĩa và hỗn độn, mang dư vị của sự điên dại và cả những giấc mơ, giống như cuộc đời của những con người đã ngừng lừa dối bản thân mình. Cuộc đời của mỗi người kể cho ta về cuộc hành trình kiếm tìm chính bản thân họ, về sự nỗ lực trong từng bước đi trên con đường ấy, và cả điềm báo về một lối mòn vô định. Chưa có một ai hoàn toàn là chính mình. Nhưng mỗi cá nhân luôn đấu tranh để sống đúng với bản thân nhất có thể, dù có trở thành một kẻ khờ khạo hay một người thông thái. Mỗi người đều mang theo mình những dấu vết của nguồn cội – lớp nước nhầy và những mảnh vỏ từ thuở còn nằm trong trứng – cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Một số sẽ không bao giờ trở thành người, mãi mắc lại trong cái lốt của nào ếch, kiến, và cả thằn lằn, một số khác lại mang thân trên của loài người nhưng thân dưới lại là đuôi cá. Mỗi số phận là một canh bạc rủi may, đặt cược trên những điều cốt lõi mà từ đó con người được nhào nặn thành hình.

Chúng ta đều sẻ chia chung một nguồn gốc, đó là những người mẹ, là cách mà ta được sinh ra. Nhưng mỗi người trong chúng ta – những thử nghiệm của tạo hóa – lại không ngừng cố gắng tìm ra định mệnh cho riêng mình. Chúng ta có thế hiểu nhau, nhưng để nhìn thấu tâm can của một người thì chỉ có thể là nỗ lực của chính bản thân người đó mà thôi.

Chương I – Hai thế giới

Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện bằng một trải nghiệm lúc mình mười tuổi, khi tôi còn học ở ngôi trường La-tinh trong thị trấn. Những điều ngọt ngào khi ấy cho đến giờ vẫn luôn khuấy động tâm can và làm tôi nghẹn lòng trong cái buồn đau u uất. Đó là những con ngõ tối tăm hay những con đường sáng sủa; những ngôi nhà cùng với những tháp cao; kẻ bằng mặt hay kẻ bằng lòng; những căn phòng giàu sang và thoải mái; ấm áp và vô lo; theo đó là những

(3)

nơi ngập tràn bí mật. Mọi thứ đều mang theo hơi ấm thân quen, những cô hầu, những bài thuốc gia đình và cả những thứ quả khô nhỏ bé.

Vương quốc của ngày và đêm, hai thế giới đối lập giờ đây lại hòa lẫn vào nhau. Ngôi nhà của cha mẹ với tôi là một thế giới, nhưng nó đang dần thu hẹp, chỉ đủ ôm lấy chính họ mà thôi. Mọi thứ ở nơi này đều vô cùng thân thuộc với tôi, nơi có cha, có mẹ, tình yêu thương đi cùng với sự nghiệm khắc, những hành xử khuôn mẫu, cũng như trường học. Nơi đó có ánh sáng chói lòa, sáng sủa, sạch sẽ, những cuộc đối thoại hòa nhã, những bàn tay được rửa kỹ càng, quần áo tinh tươm, và những lề thói tốt đẹp. Tôi sẽ được đánh thức bằng những bản thánh ca mỗi sáng, và được hồi hộp mừng đón Giáng sinh. Con đường tương lai tôi sẽ được định sẵn, có trách nhiệm, cũng có mặc cảm; những tâm hồn tội lỗi và những lời xưng tội van lơn; có sự vị tha để không tái phạm sai lầm; có tình yêu, lòng sùng kính, sự thông thái và những lời dạy của Thánh Kinh. Nếu ai kia truy cầu một cuộc đời không tì vết và được sắp xếp tất thảy, thì thế giới này chính là chốn dừng chân.

Thế giới còn lại, thứ bao phủ lấy nửa căn nhà lại là nơi đối lập hoàn toàn. Nơi đó có mùi lạ lẫm, ngôn ngữ khác biệt, người ta khát cầu những thứ hoàn toàn khác. Nơi này có những cô hầu và người làm công; những câu chuyện ma quỷ, những tin đồn và những gièm pha bàn tán. Nơi này được bao bọc trong thứ hỗn hợp của những gì gớm ghiếc, kích thích, ghê rợn và bí ẩn. Đó là những lò mổ, những nhà tù, kẻ nghiện rượu cùng những tiếng chửi chua ngoa của người bán cá; còn có những con bò đang kỳ sinh đẻ những con ngựa chết mòn, và những câu chuyện về cướp bóc, giết người và tự sát. Xung quanh ta tràn ngập những điều hấp dẫn, hoang dại nhưng cũng thật tàn nhẫn và kinh khủng, có thể tìm thấy ở ngay lối rẽ tiếp theo, hay ngôi nhà sắp đến. Cảnh sát hay gái điếm, kẻ nghiện rượu đánh vợ hay những cô gái ùa ra khỏi công xưởng vào ban đêm, những mụ phù thủy bỏ bùa mê làm ta bệnh tật, những tên ăn trộm khuất lẩn trong rừng già, và lũ đốt nhà bị bắt quả tang- mọi ngóc ngách nơi đây đều tỏa ra cái mùi đặc trưng, nhưng may mắn sao chỉ trừ căn nhà của cha mẹ. Thật vui khi biết rằng bình yên và trật tự, tĩnh lặng và thiện lương, vị tha và yêu thương nồng hậu, vẫn tràn ngập nơi này. Nhưng cũng thú vị làm sao khi thế giới kia cũng song song tồn tại, vô số những âm thanh khó nghe, đầy rẫy buồn thương và bạo hành. Nhưng tuyệt nhất là khi tôi vẫn có thể dễ dàng thoát ra khỏi những điều u ám để sà vào lòng mẹ an yên. Hai thế giới ấy vừa tách biệt, nhưng cũng lại gần gũi một cách diệu kỳ. Tỉ như khi cô hầu Lina ngồi bên cửa phòng khách, khẽ ngân nga giai điệu bài thánh ca và cùng chúng tôi cầu nguyện. Đôi tay sạch sẽ đặt gọn gàng trên chiếc tạp dề trắng muốt phẳng phiu, nàng thuộc về cha và mẹ và chúng tôi, thuộc về ánh sáng và sự công bằng. Nhưng sau đó, trong góc nhà bếp hoặc nơi kho củi, nàng dường như trở thành một người xa lạ khi kể tôi nghe câu chuyện về “gã nhỏ thó không đầu”, hay như khi nàng cãi nhau với mụ bán thịt nhà bên. Nàng khi ấy thuộc về một thế giới khác, nơi giấu nàng đi bằng ngàn bí ẩn. Và

(4)

đó là cách mọi việc vẫn diễn ra, hay chính là cách tôi vẫn đang tồn tại. Chẳng một chút đắn đo khi khẳng định rằng vì là con của cha mẹ nên tôi thuộc về vương quốc của ánh sáng và công bằng. Nhưng trên mỗi bước đường đời tôi đi, tôi lại nhận thức nhiều hơn về một thế giới khác. Tôi cũng sống trong lòng thế giới ấy, dù cho bản thân còn bao lạ lẫm, dù cho phải chịu đựng đau đớn và khủng hoảng tinh thần. Đã có những lúc tôi thực sự muốn sống ở nơi cấm địa hoang tàn, nhưng vẫn có thể tùy nghi trở lại thế giới có mẹ cha – một nơi chẳng đẹp như tôi muốn, tẻ ngắt và chán nản. Nhiều khi tôi đã chắc chắn rằng số mệnh của mình là trở thành một người sáng suốt, kiên định, ngăn nắp và giỏi giang như cha mẹ. Nhưng mục tiêu ấy nghe thật xa vời, đạt được điều đó đồng nghĩa với việc phải đến trường đầy đủ, phải học tập không ngừng, vượt qua nào những kiểm tra và thi cử. Và chính sự xa vời ấy đã kéo tôi lại gần hơn với vương quốc tối tăm kia. Thật dễ dàng để một người có thể trở thành một phần của thế giới ấy và rồi đắm chìm vào đó. Có những câu chuyện tôi từng đọc một cách say mê, về những người con trót lầm đường lạc lối. Những câu chuyện ấy luôn miêu tả việc trở về nhà như một sự cứu rỗi, hay như thứ gì đó thật phi thường; làm tôi hoàn toàn bị thuyết phục rằng việc trở về nhà là điều đúng đắn, tuyệt vời và đáng để truy cầu nhất. Cho dù vậy, một câu chuyện chất đầy xấu xa và lạc lõng lại hấp dẫn hơn rất nhiều, đặc biệt là trong những thời điểm tôi không muốn “Đứa con hoang đàng” [1] trong tim bỗng dưng hối cải quay đầu. Nhưng chẳng ai

dám nghĩ về điều đó, càng không dám bàn tán nhỏ to. Thế giới tối tăm này chỉ hiện hữu như một thứ điềm báo, một mầm mống nảy sinh thẳm sâu tận trong ý thức của một con người. Mỗi khi tôi hình dung về loài quỷ dữ, thì hiện lên luôn là cảnh hắn đứng ở dưới phố, dù có ngụy trang hay phơi bày hình dáng thật, dù đang ở một hội chợ miền quê hay trong quá bar ồn ã, thì cũng sẽ không bao giờ ở trong nhà với chúng tôi.

Những người chị của tôi cũng thuộc về vương quốc ánh sáng. Tôi luôn có cảm giác họ mang trên mình thứ ái lực tự nhiên hấp dẫn mẹ cha. Họ hành xử tốt hơn, và mắc ít lỗi lầm hơn tôi rất nhiều. Tất nhiên vẫn có những khi các nàng mắc lỗi hay phải trải qua những giây phút thăng trầm, nhưng những điều u uất ấy không ảnh hưởng sâu sắc đến họ như chúng đã làm tổn thương tôi. Vì tôi đây là kẻ gần gũi với bóng đêm mờ mịt, mang trong mình thứ kết nối vô hình với ác quỷ, ngày càng ngột ngạt và đớn đau. Các chị xứng đáng được hưởng cuộc sống an nhàn và được tôn trọng giống như cha mẹ. Nếu giữa chúng tôi nảy sinh bất hòa, sau tất cả tôi vẫn là kẻ phải tự sám hối, tự quở trách bản thân và phải cầu xin sự tha thứ. Vì xúc phạm chị tôi là xúc phạm cha mẹ, là sỉ nhục những gì tốt đẹp cao quý. Vậy nên tôi thà sẻ chia những bí mật của mình cho những kẻ lưu manh, còn hơn là kể cho chị gái mình. Vào những ngày bản ngã của tôi không kêu gào đòi giải thoát, tôi có thể chơi với các chị một cách hồn nhiên và vui vẻ, mang trên mình những gì tốt đẹp và tao nhã, toát ra thứ ánh sáng cao quý giống như các nàng. Tôi bộc lộ mọi thứ mà một thiên thần cần có, những phẩm chất tốt đẹp nhất mà một người có thể hình dung. Thế nhưng những ngày tươi sáng ấy lại ít ỏi đến đau lòng. Mỗi khi vui đùa dù chỉ là những trò chơi vô hại, tôi cũng trở nên quá khích và

(5)

ương ngạnh, những điều này là quá sức đối với chị tôi. Rồi những cuộc cãi vã lại bức tôi vào vai một kẻ xấu xa chỉ biết nổi cơn thịnh nộ. Họ và tôi đều cùng một lúc khiến trái tim đối phương khô cằn bằng những lời lẽ và việc làm cay độc. Và rồi sau đó lại là quãng thời gian hối lỗi và ăn năn đầy u ám và khắc nghiệt, mang theo sự đau đớn tột cùng khi phải van cầu tha thứ. Cuối cùng sẽ lại kết thúc bằng những chùm sáng lấp lóa và sự hân hoan bình yên trọn vẹn.

Tôi đi học ở một ngôi trường La-tinh. Hai cậu con trai của ngài thị trưởng và ông chủ của khu rừng học chung lớp với tôi và đôi khi họ cũng đến thăm nhà. Dù cho cả hai đều ngỗ ngược, thì họ vẫn là những đứa con của cái thiện lương và mẫu mực. Thế nhưng không có nghĩa là tôi không chơi cùng những cậu trai hàng xóm, những người học ở trường công mà chúng ta luôn khinh thường. Và một trong số họ, đã cùng tôi bắt đầu câu chuyện đời mình.

Vào một ngày nghỉ nửa buổi, khi đang cùng hai cậu nhóc hàng xóm rong chơi khắp nẻo, con trai của gã thợ may – một thằng nhóc vạm vỡ và cao lớn học trường công đã xin gia nhập. Bố cậu ta là kẻ nát rượu và cả nhà đều mang tiếng xấu. Tôi đã được nghe nhiều về Franz Kromer, đã từng khiếp sợ cậu ta không hề lấy làm thích thú khi cậu ta bước tới. Bộ dạng chững chạc như kẻ trưởng thành và còn bắt chước dáng đi của những người công nhân nhà máy. Dưới sự chỉ huy của Kromer, chúng tôi trèo xuống khu đất bên bờ sông và trốn dưới nhịp đầu tiên của cây cầu vòm [2]. Dải đất hẹp giữa phần tường

cong cong và dòng sông chảy trôi lười biếng bị lấp đầy bởi nào những thứ đồ bỏ đi, những mảnh vỡ, những túi bọc dây thép và rác thải bị ném lộn xộn. Thỉnh thoảng ai đó có thể nhặt nhạnh được thứ gì hữu ích. Franz Kromer bắt chúng tôi lùng sục cả khu đất và cho cậu ta xem chúng tôi đã tìm được gì. Sau đó cậu ta hoặc sẽ đút túi hoặc sẽ ném lại xuống sông. Cậu ta bắt chúng tôi phải tìm những đồ vật làm từ chì, đồng thau và thiếc và rồi giấu hết chúng đi, thậm chí không chừa lại cả chiếc lược sừng. Tôi cảm thấy rất khó chịu với sự hiện diện của cậu ta. Không phải bởi vì cha sẽ không cho phép, mà đơn giản chỉ là tôi sợ hãi Franz dù cũng đã rất vui khi được cậu ta chấp nhận và đối xử như bao người khác. Cậu ta ra lệnh, chúng tôi vâng lời, tựa như một thói quen cố hữu dù đây hoàn toàn là lần đầu tôi đi cùng cậu.

Khi chúng tôi vừa ngồi xuống được một lúc, Franz nhổ toẹt nước bọt xuống sông. Cậu ta khạc nhổ và đánh bất cứ thứ gì mình nhắm tới. Một cuộc nói chuyện bắt đầu, những cậu trai bắt đầu khoe khoang và tự tán dương bản thân bằng những bài thơ ca tụng và mấy trò bịp bợm. Tôi chỉ yên lặng nhưng cũng sợ rằng sự yên lặng của tôi sẽ khiến Kromer tức giận. Hai cậu bạn kia bắt đầu xa lánh tôi ngay khi Franz Kromer nhập cuộc. Tôi thấy lạc lõng vô cùng và dường như bộ dạng cũng như quần áo của tôi chính là rào cản. Sẽ không đời nào có chuyện Franz cũng như hai người kia có thể thực sự thích tôi – một đứa trẻ học trường tư, mà người ta vẫn nghĩ chúng sống đủ đầy và

(6)

được cha mẹ nuông chiều đến hư. Tôi cảm nhận được rằng mình chẳng mấy chốc sẽ bị ruồng rẫy và bỏ rơi.

Sau cùng, tôi cũng quyết tâm bỏ qua lo lắng mà bắt đầu kể chuyện. Tôi bịa ra một câu chuyện dài về một vụ trộm mà ở nơi đó tôi ngạo nghễ như một vị anh hùng. Một đêm nọ trong khu vườn gần chiếc cối xay gió, tôi cùng đứa bạn đã ăn trộm một bao tải đầy táo. Những quả táo đều là hàng thượng đẳng chứ chẳng phải thứ tầm thường. Chính nỗi sợ hãi đã khiến tôi phải tìm nơi ẩn náu trong câu chuyện, nơi tôi có thể tự nhiên sáng tạo và ba hoa. Để khiến mọi thứ không rơi vào tĩnh lặng, hay thậm chí khiến tình hình trở nên tồi tệ, tôi đã phải dốc hết khả năng kể chuyện của mình. Tôi tiếp tục kể, rằng một trong số chúng tôi đã phải đứng canh trong khi những người còn lại trèo lên cây và rung cành cho táo rụng. Thế rồi chiếc bao quá nặng, đến nỗi chúng tôi phải bỏ lại nửa số táo để chuồn đi, và nửa tiếng sau quay lại để trộm nốt số táo thừa.

Kết thúc câu chuyện, tôi ngóng chờ dấu hiệu của sự tán đồng. Chính tôi cũng đã trở nên hào hứng từ đầu đến cuối và tự cuốn bản thân chìm vào tài bịa truyện của mình. Hai người kia chỉ chờ đợi mà chẳng mở lời, nhưng Franz Kromer thì lườm tôi sắc lẻm bằng cái cặp mắt híp tịt rồi hằm hè dò hỏi:

“Truyện mày kể có thật không?” “Là thật.” Tôi đáp.

“Thật sự là thật hả?”

“Phải, tất cả đều là thật.” Tôi cắn răng cứng đầu đáp lại dù bên trong đang không ngừng run rẩy.

“Mày dám thề không?” Tôi sợ đến co rúm lại nhưng vẫn nhất mực khăng khăng.

“Vậy mày hãy nói: Tôi thề có Chúa và các thánh thần.” “Tôi thề có Chúa và các thánh thần.” Tôi lặp lại.

“Vậy được rồi.” Cậu ta đáp gọn lỏn rồi quay đi.

Tôi nghĩ có lẽ mọi chuyện giờ đã ổn, và cảm thấy nhẹ nhõm khi cậu ta đứng lên và trở về nhà. Sau khi trèo lại lên cầu, tôi dè dặt nói rằng mình sẽ về nhà một mình.

(7)

“Mày làm gì mà phải vội thế.” Franz cười lanh lảnh. “Đằng nào chúng ta chẳng về chung đường.”

Rồi cậu ta cứ thong thả bước đi còn tôi thì chẳng dám bỏ chạy, vì cậu ta thực sự đang đi về hướng nhà mình. Khi cả lũ đến nơi, tôi ngẩng lên nhìn cánh cửa, ngắm những tia nắng xuyên qua cửa sổ và chiếc rèm cửa phòng mẹ đong đưa, tôi thở phào nhẹ nhõm. Khi tôi cố gắng mở cửa thật nhanh và lách vào, sẵn sàng đóng sầm cửa lại, thì Franz Kromer cũng cố len vào ngay sau tôi. Franz đứng sát cạnh tôi nơi hành lang lát đá tối tăm, chỉ nhận được chút ánh sáng nhợt nhạt nơi cửa sổ nhìn ra sân sau, giữ chặt vai tôi và nhẹ nhàng hỏi:

“Sao mày cứ phải vội thế làm gì?”

Tôi khiếp sợ nhìn không chớp mắt còn cậu ta vẫn kẹp chặt tôi trong tay của mình. Tôi chợt nghĩ trong đầu lẽ nào cậu ta muốn đánh tôi. Tôi cố gắng lựa chọn có nên hét loạn lên hay không, rồi sẽ có người nghe thấy và chạy xuống cứu tôi. Nhưng rồi tôi lại tự gạt đi.

“Sao nào, cậu muốn gì?” Tôi hỏi.

“Chẳng có gì, tao chỉ muốn hỏi riêng mày vài điều thôi. Hai thằng kia không cần phải nghe.”

“Ồ vậy sao? Tôi thì chẳng có gì để nói với cậu cả. Buông tôi ra, tôi phải lên nhà.”

Bằng thứ giọng nhẹ nhàng, Franz Kromer lại hỏi:

“Mày có biết chủ nhân khu vườn cạnh cối xay gió là ai không?” “Tôi không rõ nữa, có lẽ là chủ của chiếc cối xay.”

Franz vòng tay qua người tôi và kéo tôi lại thật gần, ép tôi phải nhìn thẳng vào khuôn mặt cậu ta. Đôi mắt và cả nụ cười của cậu ta đều toát lên cái vẻ thâm hiểm và độc ác, gương mặt thì được vẽ nên bởi sự hung tàn và sức mạnh.

“Tao có thể nói cho mày biết chính xác chủ nhân khu vườn là ai, tao mới hay tin gần đây nơi đó thường bị ai đó ăn trộm táo. Và người chủ khu vườn nói ông ấy sẽ thưởng hai đồng mác [3] cho ai tìm ra thủ phạm.”

(8)

“Ôi Chúa ơi, cậu sẽ không làm vậy phải không?” Tôi la lên.

Tôi cảm thấy việc cầu xin lòng nhân đức của cậu ta lúc nãy cũng vô dụng. Tôi nhận thức được rằng tên này đến từ thế giới kia, nơi mà sự phản bội không phải là tội lỗi. Những con người của thế giới đó không cùng quan điểm với chúng tôi về những chuyện thế này.

“Không định nói gì à? Này nhóc, mày nghĩ tao là ai? Mày nghĩ tao có cả núi tiền à? Tao nghèo, tao không có một ông bố giàu có như mày và nếu tao có cơ hội kiếm được hai đồng, tao cũng bất chấp để có được. Mà có khi ông ấy còn thưởng thêm nữa.” Kromer cười.

Bỗng nhiên cậu ta buông tôi ra. Cái thứ mùi bình yên và an toàn nơi hành lang đã hoàn toàn biến mất, thế giới xung quanh tôi dần vỡ vụn. Kromer sẽ giao tôi cho cảnh sát. Tôi sẽ trở thành tội phạm, người ta sẽ thông báo cho cha, hay có khi cảnh sát sẽ đến tận nhà. Tất cả những sự khiếp sợ hỗn độn ấy đe dọa tôi, mọi thứ xấu xí và nguy hiểm cùng đoàn kết chống lại tôi. Dù rằng tôi có thề rằng tôi chẳng ăn cắp thì giờ cũng chẳng còn nghĩa lý.

Nước mắt tôi ứa ra, tôi cảm thấy mình phải đưa ra một thỏa thuận, tôi tuyệt vọng móc hết túi quần và túi áo. Tôi nhận ra mình chẳng có gì cả, dù chỉ là một quả táo, hay là một con dao. Tôi chợt nghĩ đến chiếc đồng hồ cũ bằng bạc của bà mà tôi vẫn đeo làm cảnh vì từ lâu nó đã không còn chạy nữa. Tôi nhanh chóng tháo nó ra và nói với Kromer:

“Nghe này, làm ơn đừng tố cáo tôi. Như vậy thật chẳng công bằng. Tôi tặng cậu chiếc đồng hồ này như lễ vật cầu hòa nhé, này nhìn đi. Ngoài ra tôi chẳng còn gì cả. Cậu lấy nó đi, nó được làm bằng bạc, tuy có chút vấn đề trong việc xem giờ nhưng cậu chỉ cần mang nó đi sửa thôi.”

Cậu ta cười và săm soi chiếc đồng hồ trong tay. Nhìn vào bàn tay ấy, tôi chỉ thấy nó thật hung tợn và vô cùng đáng ghét, và tôi đau đớn nhận ra những thứ đó đã chạm tới cuộc sống và sự yên bình của tôi như thế nào.

“Nó làm bằng bạc thật đấy.” Tôi lí nhí.

“Tao chẳng quan tâm cái thứ cổ lỗ sĩ này có bằng bạc hay không. Mày tự đem đi mà sửa.” Cậu ta nói một cách khinh bỉ.

“Nhưng mà Franz!” Tôi hét lên, run rẩy sợ rằng cậu ta sẽ đi mất.

“Xin cậu chờ đã. Tại sao cậu lại không nhận nó? Nó thực sự làm bằng bạc mà. Tôi cũng chẳng còn gì khác nữa.”

(9)

Cậu ta ném cho tôi một cái nhìn đầy khinh miệt và nói:

“Mày biết giờ tao sẽ đi gặp ai rồi đấy. Hoặc tao cũng có thể đi báo cảnh sát nữa. Tao khá thân với một tên hạ sĩ.”

Kromer quay lưng như thể chuẩn bị rời đi. Tôi nắm chặt ống tay áo của cậu ta. Tôi không thể để cậu ta đi được, tôi thà chết còn hơn phải chịu đựng những thứ có thể xảy ra nếu bị tố cáo như vậy.

“Franz.” Tôi van nài bằng thứ giọng đã khản đặc. “xin cậu đừng làm chuyện dại dột như thế. Cậu chỉ đùa tôi thôi mà phải không?”

“Đúng, tao đang đùa đấy, nhưng mà đùa cũng dễ thành thật lắm.”

“Hãy nói tôi nghe cậu muốn tôi làm gì hả Franz, tôi sẽ làm mọi điều mà cậu muốn.”

Cậu ta lại dùng cái cặp mắt ti hí ấy nhìn tôi từ trên xuống dưới rồi lại phá lên cười.

“Mày đừng ngu ngốc thế. Mày cũng thừa biết rằng tao có thể kiếm ra hai đồng. Tao không giàu tới mức có thể vứt cơ hội đó đi. Nhưng mày giàu mà phải không, mày còn có đồng hồ cơ mà? Mày chỉ cần đưa tao hai đồng, thế là xong chuyện.”

Tôi hiểu cách nghĩ của cậu ta. Nhưng hai đồng mác Đức, với tôi nó cũng khó kiếm như mười, như trăm, như ngàn đồng mác vậy. Tôi chẳng có một cắc trong tay. Tôi có một cái ống tiết kiệm mà mẹ đang giữ, mỗi lần họ hang đến thăm họ đều thả vào đó năm mười cắc bạc. Đó là tất cả những gì tôi có vì chẳng được cho tiền tiêu vặt.

“Tôi không có, tôi không có xu nào cả. Nhưng tôi có thể cho cậu tất cả những thứ khác mà tôi có. Tôi có một mô hình chú lính bằng thiếc, và một cái la bàn. Chờ nhé, để tôi đi lấy chúng cho cậu.”

Cậu ta nhếch miệng lên khinh bỉ rồi nhổ nước bọt xuống sàn rồi đay nghiến: “Mày cứ giữ lấy cái đống rác rưởi đó đi. Một cái la bàn ư? Đừng làm tao điên! Tao chỉ cần tiền!”

(10)

“Được thôi, mày có thể đưa tao và ngày mai. Tao sẽ chờ mày ở gần khu chợ sau giờ học. Chấm hết. Nếu không mang đến, thì mày biết chuyện gì sẽ xảy ra rồi đấy.”

“Nhưng tôi biết lấy tiền ở đâu nếu không có nổi một đồng bây giờ?”

“Nhà mày có một đống tiền. Tự lo đi. Ngày mai sau giờ học. Và tao nói cho mày biết, nếu mày không mang đến…”

Cậu ta ném cho tôi cái nhìn khinh miệt, nhổ nước bọt thêm một lần nữa, rồi đi mất.

Tôi thậm chí chẳng bước nổi lên cầu thang. Cuộc đời tôi từ nay hoàn toàn sụp đổ. Tôi đã nghĩ đến chuyện bỏ chạy thật xa và không bao giờ quay lại nữa, hoặc cả đến việc nhảy sông tự sát. Tuy nhiên tôi chẳng thể tưởng tượng ra bất kỳ cách thức nào một cách rõ ràng. Trong bóng tối, tôi rúc mình nơi cuối cầu thang, với mọi sự ngổn ngang trong đầu, và đắm mình vào khốn khổ. Lina tìm thấy tôi nức nở khi nàng mang giỏ xuống nhà để lấy củi khô. Tôi xin nàng đừng hỏi gì cả rồi đi lên lầu. Những thứ thân thuộc như chiếc mũ của cha, chiếc dù của mẹ treo bên phải cánh cửa thủy tinh mang cho tôi cảm giác được trở về nhà đầy thanh thản. Con tim tôi chân thành đón chào cảm giác ấy, như “người con hoang đàng” kia hân hoan trước khung cảnh và mùi hương tỏa ra từ những căn phòng thân thuộc. Nhưng tôi đã mất tất cả rồi, những thứ đó thuộc về cái thế giới đầy ánh sáng của cha mẹ. Còn tôi thì chìm sâu trong một thế giới xa lạ, cuốn mình vào đầy rẫy những liều lĩnh và tội lỗi, bị đe dọa bởi kẻ thù, hiểm nguy, bởi sợ hãi và hổ thẹn. Từ chiếc mũ và cây dù, sàn nhà lát đá cát kết [4] tôi vẫn yêu, đến bức tranh to phía trên tủ đựng

đồ, thậm chí cả giọng nói của người chị cả vọng ra từ phòng khách, tất cả đều trở nên cảm động, quý giá và ngọt ngào hơn hơn bao giờ hết, nhưng giờ lại chẳng còn là nơi cho tôi nương tựa và dựa vào. Những điều thân thương ấy đã trở thành một lời nhiếc móc quá đỗi hiển nhiên. Tôi giờ chẳng còn gì, cũng sẽ chẳng bao giờ có thể hòa mình vào sự hân hoan yên bình đó. Chân tôi lấm lem đầy bùn đất, và tôi chẳng thể lau sạch những vết dơ trên tấm thảm. Bất kể tôi đi đâu, thứ bóng tối mà thế giới ngập tràn ánh sáng của gia đình tôi không bao giờ biết tới, luôn bám theo sát gót. Bao nhiêu điều bí mật tôi từng có, bao nhiêu lần tôi từng lo, tất cả chỉ là trò trẻ con so với cái thứ hôm nay đã theo tôi về nhà. Tôi bị vận đen nhắm đến và đeo bám, và thậm chí cả mẹ cũng chẳng thể bảo vệ tôi vì bà còn không được phép biết về nó. Dù tội của tôi là ăn trộm hay nói dối – (chẳng phải tôi đã cả gan làm ra một điều đáng sợ là nói dối Chúa hay sao?) , thì giờ cũng chẳng còn quan trọng. Tội ác tôi gây ra không cụ thể là cái này hay cái kia, nhưng nó bao gồm việc tôi đã bắt tay với quỷ dữ. Tại sao tôi lại chơi với cậu ta? Tại sao tôi lại phải

(11)

thuần phục Kromer hơn cả khi nghe lời cha dạy? Tại sao tôi lại bịa ra câu chuyện đó, tự đeo thòng lọng cho chính mình như thể đó là một hành động anh hùng lắm vậy? Nanh vuốt của quỷ dữ giữ chặt lấy tôi, kẻ thù rình rập phía sau tôi.

Hiện tại tôi chẳng còn quá sợ hãi về điều gì sẽ xảy đến ngày mai, vì tôi chắc chắn rằng con đường tôi đi từ nay sẽ ngày càng tăm tối. Tôi linh cảm được những tội lỗi mới chắc chắn sẽ nảy sinh từ sai lầm hôm nay, rằng sự hiện diện của tôi giữa các chị – những đứa con vẫn thường chào hỏi và ôm hôn mẹ cha, là một sự giả dối. Và tôi nhận thức rõ ràng được mình đang nuôi nấng một sự dối trá được giấu kín sâu thẳm trong tim.

Trong khoảnh khắc, khi nhìn vào chiếc mũ của cha, tôi cảm thấy tự tin và hy vọng lại le lói bập bùng. Tôi sẽ nói với cha tất cả, sẽ chấp nhận mọi sự trừng phạt từ ông. Cha sẽ trở thành người để tôi xưng tội, và trở thành cứu tinh của tôi. Mọi thứ sẽ chỉ giống như một trong những lần tôi ăn năn hối lỗi, một giờ đầy cay đắng, và một lời thỉnh cầu tha thứ buồn đau.

Điều đó nghe mới thật cám dỗ và ngọt ngào làm sao. Nhưng chẳng có tác dụng gì hết, vì tôi biết mình sẽ không làm thế. Tôi biết giờ mình đang mang một bí mật, mội lỗi lầm mà tôi phải tự mình chuộc tội. Có lẽ tôi đang đứng nơi ngã ba đường, hay có chăng tôi đã mãi mãi đứng trong hàng ngũ những kẻ xấu xa, cùng sẻ chia bí mật cùng họ, phụ thuộc vào họ, phục tùng họ và trở thành một trong số họ. Tôi đã tỏ ra mình là anh hùng, và giờ thì tôi phải gánh lấy hậu quả.

Tôi đã mừng rúm khi cha mắng tôi vì đã để đôi giày lấm bùn. Nó đã đánh lạc hướng sự chú ý của cha ra khỏi cái chuyện động trời ấy và đặt tôi vào tâm thế hứng chịu những lời nhiếc móc mà tôi có thể bí mật đổ lên một lỗi lầm khác, một sai phạm còn nghiêm trọng hơn. Một cảm giác mới mẻ và lạ lẫm chợt lướt qua đầu tôi: Tôi cảm thấy mình còn tuyệt vời hơn cả cha. Trong khoảnh khắc tôi kinh tởm sự ngu dốt của ông. Đáng thương hại biết bao khi ông chỉ nhằm vào đôi giày đầy bùn đất mà quở trách. Cái suy nghĩ “Nếu cha mà biết…” lướt qua khi tôi đứng đó như một kẻ tội đồ đang bị tra khảo vì một ổ bánh mì đi trộm, trong khi những gì hắn thực sự gây ra là một vụ giết người. Đó là một cảm giác ghê tởm nhưng nó cũng mạnh mẽ đầy hấp dẫn. Thứ cảm xúc đó, mang theo bí mật và tội lỗi, trói buộc tôi còn chặt hơn bất cứ thứ gì. Tôi đoán giờ có lẽ Kromer đã đi vạch mặt tôi với cảnh sát, suy nghĩ ấy như sấm chớp bão bùng kéo đến trên đầu tôi. Vậy mà trong khi ấy, cha mẹ vẫn tiếp tục đối xử với tôi như với một đứa trẻ con ngu dại.

Giờ là thời khắc trọng đại bền vững nhất trong tất cả mọi điều tôi đã kinh qua. Đó là vết rạn đầu tiên về hình ảnh thần thánh của cha, đó là kẽ nứt của cây cột trụ chống cả tuổi thơ, chính là thứ mà mỗi chúng ta cần phá hủy để

(12)

được là chính mình. Nội tại, hay chính là ranh giới quan trọng của số mệnh, luôn hàm chứa trong đó những trải nghiệm vô hình. Những khe hở, những rãnh nứt lại một lần nữa lớn dần, rồi lại chữa lành và sẽ lại bị lãng quên, nhưng tại những nơi bí mật sâu thẳm nhất, những vết thương vẫn hiện hữu và không ngừng rỉ máu.

Ngay lập tức tôi cảm nhận được sự đáng sợ của thứ suy nghĩ này, đến mức tôi có thể quỳ xuống và hôn lấy bàn chân của cha hòng đổi lấy sự tha thứ. Nhưng một người không thể xin lỗi vì một thứ quá giản đơn, và một đứa trẻ có thể nhận thức về điều đó sâu sắc như bất kỳ nhà hiền triết nào.

Tôi cần phải suy nghĩ kỹ về vấn đề của mình, tự ngẫm về những việc tôi phải làm ngày mai. Nhưng thời gian chẳng cho tôi làm điều đó. Tối nào tôi cũng quá bận để cố làm quen với mọi sự đổi thay trong phòng khách. Đồng hồ treo tường và chiếc bàn thấp bé, Thánh Kinh và tấm gương, giá sách và những bức tranh trên tường, tất cả đều đã bỏ tôi ở lại. Với sự lạnh lẽo tê tái trong tim, tôi buộc phải chứng kiến thế giới của tôi, cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, tự do của tôi, đang xa dần và trở thành một phần của quá khứ. Tôi buộc bản thân thừa nhận rằng mình đã nhanh chóng bị thế giới ngoài kia, một nơi đầy tối tăm và lạ lẫm, trói buộc. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi cảm nhận được mùi vị của cái chết. Cái chết có vị đắng cay và chua chát, vì cái chết là nỗi sợ dai dẳng và là sự lo âu về một cuộc tái sinh khủng khiếp.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng có thể đặt lưng lên chiếc giường thân thuộc. Trước đó tôi đã phải chịu đựng những lời cầu nguyện và khúc thánh ca tôi đã từng rất thích. Tôi cảm thấy không thể nào hòa nhập, từng nốt nhạc không ngừng cào xé ruột gan. Khi cha ngâm nga lời cầu nguyện và kết thúc với câu “Chúa sẽ luôn ở bên ta!”, có gì đó đã vỡ nát trong tim tôi, tôi đã vĩnh viễn bị đẩy ra ngoài vòng cầu nguyện thân thương ấy. Hồng ân của đức Chúa luôn ở bên họ, chứ chẳng ở còn bên tôi. Tôi bỏ đi, lạnh lẽo và hoàn toàn kiệt quệ.

Nằm trên giường một lúc, cuộn tròn trong hơi ấm và cảm giác an toàn nó mang lại, tôi lại một lần nữa sợ hãi và đắm mình vào sự mơ hồ và lo âu về những gì đã thuộc về quá khứ. Mẹ tôi luôn chúc ngủ ngon trước khi đi ngủ. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng bước chân mẹ vang vọng khắp nơi, ánh nến lập lòe vẫn hắt qua khe cửa. Tôi nghĩ giờ mẹ sẽ quay lại một lần nữa, mẹ cảm thấy có gì đó lạ, mẹ sẽ hôn tôi và hỏi han tôi nhẹ nhàng bằng những lời đáng tin. Rồi tôi sẽ khóc, cục nghẹn nơi cổ họng sẽ hoàn toàn tan biến, tôi sẽ choàng tay ra mà ôm lấy mẹ, và mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, vì tôi sẽ được cứu rỗi. Dù cho khe cửa sau đó bị bóng tối nuốt chửng, tôi vẫn tiếp tục lắng nghe và chắc chắn điều đó sẽ xảy ra.

(13)

Rồi tôi trở về với những ngổn ngang chất đống và nhìn thẳng vào phía kẻ thù. Tôi thấy cậu ta một cách rõ ràng, với đôi mày nhíu lại, miệng kéo ra một nụ cười độc ác. Khi tôi nhìn cậu ta, tôi lại càng không thể phủ nhận rằng cậu ra càng lớn càng xấu xí cùng đôi mắt nhuốm màu ma quỷ. Cậu ta vẫn đứng đó cho tới khi tôi chìm vào giấc ngủ, nhưng tôi chẳng hề mơ thấy cậu ta hay tất cả những gì xảy ra ngày hôm đó. Tôi mơ về cha mẹ và các chị, khi mình đang nghỉ ngơi trên con thuyền nhỏ chơi vơi, được sự bình yên và ánh sáng chói lòa ôm lấy vẹn tròn. Tôi bật dậy giữa đêm cùng chút dư vị của niềm hạnh phúc, và vẫn nhìn thấy chiếc váy mùa hè mang sắc trắng thuần trong của chị tôi tỏa sáng lung linh đón ánh mặt trời. Rồi tôi rơi khỏi cõi mộng mơ và trở về thực tại, một lần nữa đối mặt với kẻ thù, và ánh mắt đầy hung bạo. Sáng hôm sau, khi mẹ chạy vào phòng và quở trách rằng muộn rồi mà sao tôi vẫn nằm trên giường, tôi thấy trong người rất khó chịu. Khi mẹ hỏi có chuyện gì sao con, tôi đã nôn.

Như thế này có lẽ lại hay. Tôi thích bị ốm nhẹ, được phép nằm trên giường cả buổi, nhâm nhi tách trà hoa cúc, lắng nghe âm thanh mẹ tôi dọn phòng hay Lina đang cãi nhau với mụ bán thịt ngoài hành lang tầng dưới. Cả buổi sáng không phải đến trường nghe mới hấp dẫn làm sao, tựa như một câu chuyện cổ tích tôi vẫn mơ về. Ánh nắng dạo chơi nơi phòng tôi khác xa thứ ánh sáng gay gắt bị chặn lại mỗi khi những tấm màn xanh ở trường hạ xuống. Nhưng hôm nay, cái cảm giác ấy lại không khiến tôi dễ chịu chút nào, bởi một điều gì đó không đúng vẫn đang hiện hữu.

Ước chăng tôi có thể chết đi. Nhưng vẫn như những lần khác, tôi chỉ có chút không khỏe và điều đó thì chẳng tác dụng gì. Ốm đau giúp tôi cúp học nhưng không thể bảo vệ tôi khỏi sự thật rằng Franz Kromer sẽ đứng chờ lấy tiền lúc mười một giờ ở khu chợ. Và sự quan tâm của mẹ thay vì làm tôi thoải mái lại khiến tôi cảm thấy thật phiền. Tôi diễn một màn buồn ngủ để có thể một mình suy tư, nhưng chẳng thể tìm ra cách giải quyết nào thỏa đáng. Mười một giờ tôi phải ở chợ, vì thế khi đồng hồ điểm mười giờ, tôi lặng lẽ thay đồ và nói với mẹ rằng mình đã cảm thấy khá hơn. Và lần nào cũng thế, mẹ đều quả quyết: một là quay ngay về giường, hai là chiều nay liệu mà đến trường. Tôi nói mình rất vui nếu được trở lại trường, vì trong đầu tôi đã có kế hoạch. Tôi không thể cứ đi tay không đến gặp Kromer, tôi phải lấy được ống tiết kiệm dù biết rằng trong đó cũng chẳng có nhiều nhặn gì. Nhưng có còn hơn không, mong sao ít nhất Kromer có thể phần nào nhân nhượng.

Xỏ chân vào chiếc tất mềm mại, tôi rón rén từng bước tội lỗi vào phòng mẹ và trộm cái ống tiết kiệm trên bàn. Hành động này chẳng tệ bằng một nửa những gì xảy ra hôm qua với Kromer. Tim tôi đập nhanh đến mức tưởng như thắt lại. Tôi vẫn chưa thể thở phào khi đi xuống cầu thang và phát hiện ra ống tiền bị khóa. Việc mở khóa đơn thuần chỉ là giật mạnh miếng thiếc. Nhưng đau đớn thay giây phút cái móc khóa bật mở, tôi đã thực sự biến

(14)

thành kẻ trộm. Trước tới giờ tôi mới chỉ trộm vài miếng đường hay hoa quả, nhưng lần này thì nghiêm trọng hơn rất nhiều, dù cho hiện tại tôi đang trộm chính tiền của tôi. Tôi cảm nhận được mình đang tiền một bước gần hơn tới Kromer và cái thế giới cậu ta thuộc về, cảm nhận được mọi thứ tốt đẹp đang trượt dốc. Tôi bắt đầu trở nên ngoan cố, khôn ngoan thì sống, dại dột thì chết. Tôi không quay đầu được nữa. Tôi chỉ có thể bắt đầu đếm tiền trong lo sợ. Âm thanh leng keng trong ống tiết kiệm cho tôi cảm giác có rất nhiều tiền, nhưng dốc ra chỉ vỏn vẹn có sáu mươi lăm pen-níc [5] . Tôi giấu chiếc hộp

ở tầng trệt, siết chặt từng đồng trong tay và ra khỏi nhà. Chưa một lần nào bước qua cánh cửa đó mà tôi lại mang theo thứ cảm xúc khác lạ đến thế. Tôi nghe ai đó gọi mình từ trên lầu, nhưng tôi vẫn nhanh chóng rời đi.

Vẫn còn khá nhiều thời gian. Đi qua con đường quanh co, dưới vòm trời u ám tôi chưa một lần nhìn rõ, qua những ngôi nhà và những kẻ nhìn tôi đầy nghi hoặc, tôi lẩn mình vào trong những con ngõ nhỏ. Tôi chợt nhớ ra có một người bạn cùng trường đã từng nhặt được một đồng thaler [6] ở trong chợ gia

súc. Tôi đã có thể quỳ xuống và xin Chúa hãy ban xuống một phép màu để tôi nhận được may mắn như vậy, nhưng tôi hiện tại chẳng có tư cách để ước vọng điều gì. Vì thế mong ước chiếc hộp nguyện cầu được vẹn toàn trở lại sẽ cần đến một phép màu thứ hai.

Franz Kromer đã thấy tôi từ đằng xa, cậu ta tiến lại một cách chậm rãi và dường như lờ tôi đi. Nhưng khi đến gần, cậu ta bắt đầu hống hách ra hiệu cho tôi đi theo. Chúng tôi lững thững đi dọc theo ngõ Stroh, qua cây cầu đi bộ, cậu ta không quay lại nhìn tôi một lần nào cho đến khi dừng lại trước một tòa nhà ở ngoại ô. Chẳng có ai làm việc ở nơi này, những bức tường trơ trụi, không có cửa sổ hay cửa ra vào. Kromer nhìn quanh rồi đi vào. Tôi theo cậu ta đến phía sau bức tường, nhìn cậu ta ra hiệu rồi xòe tay ra.

“Mày có mang tiền không?” Cậu ta lạnh lùng.

Tôi đưa bàn tay vẫn đang nắm chặt ra khỏi túi và thả toàn bộ số tiền vào lòng bàn tay cậu ta. Kromer đã đếm được hết số tiền trước cả khi đồng pen-níc cuối cùng rơi xuống.

“Chỉ có sáu mươi lăm pen-níc.” Cậu ta nhìn tôi và nói.

“Phải, đó là tất cả những gì tôi có. Tôi biết là không đủ, nhưng thực sự chỉ có nhiêu đó.” Tôi lo lắng trả lời.

“Tao đã nghĩ mày phải thông minh hơn cơ.” Cậu ta trách móc nhẹ nhàng. “Vì danh dự mày phải làm đúng chứ. Tao không muốn lấy cái gì của mày nếu nó không đủ số lượng. Cầm tiền về đi. Người mà mày cũng biết là ai ấy, ông ấy không có ý định giảm tiền thưởng đâu, mà còn trả thêm nữa kìa.”

(15)

“Nhưng tôi thực sự không còn đồng nào nữa cả. Đây là toàn bộ tiền tiết kiệm tôi có.”

“Đấy là việc của mày. Nhưng tao không muốn làm mày buồn đâu. Mày nợ tao một mác ba mươi lăm pen-níc. Khi nào mày định trả?”

“Cậu chắc chắn sẽ có đủ mà Kromer, tôi chỉ không chắc là khi nào, nhưng có lẽ tôi sẽ có thêm chút ít vào ngày mai hoặc ngày kia. Cậu biết mà, tôi không thể hé răng nửa lời với cha về chuyện này.”

“Tao không quan tâm. Mày thừa biết nếu tao muốn, thì tiền lẽ ra đã về tay tao trước buổi trưa rồi, và cái nữa là tao nghèo. Mày mặc quần áo đắt tiền, và được ăn ngon hơn tao. Nhưng tao sẽ không nói gì cả, tao có thể chờ. Ngày kia tao sẽ huýt sáo gọi mày, mày biết tiếng huýt sáo của tao như thế nào rồi nhỉ.”

Tôi biết, trước đây tôi đã nghe âm thanh này. “Tôi biết rồi.” Tôi nói.

Cậu ta bỏ đi như thể trước giờ chưa quen biết gì tôi. Quan hệ của chúng tôi chẳng có gì hơn ngoài cái giao dịch này.

Tôi nghĩ tiếng huýt sáo của Kromer sẽ dọa tôi sợ chết khiếp ngay hôm nay nếu như bất tình lình tôi nghe thấy nó. Từ giờ tôi sẽ phải nghe thứ âm thanh đó lặp lại, cảm giác như tôi đã nghe nó suốt thời gian qua. Không có nơi nào, trò chơi, hoạt động hay suy nghĩ nào mà tiếng huýt sáo của cậu ta không văng vẳng. Âm thanh đó biến tôi thành nô lệ của cậu ta, tưởng chừng như số mệnh định tôi phải vậy. Tôi vẫn thường đến một vườn hoa nhỏ, nơi mang cho tôi sự bình yên trong những buổi chiều thu nhuộm đầy màu hoa cỏ. Một cảm giác kỳ lạ thôi thúc tôi chơi lại những trò chơi trẻ con thuở thiếu thời, trở thành một ai trẻ hơn tôi thật sự, một người tốt đẹp và tự do, vô tư và an toàn. Nhưng giữa lúc tôi đắm chìm trong chốn thiên đường ấy –từ nơi nào đó, tiếng huýt sáo của Kromer vọng lại, phá hủy cuộc vui và nghiền nát ảo tưởng của tôi. Rồi tôi cũng phải rời bỏ khu vườn để đi theo kẻ hành hạ tôi đến những nơi xấu xí và tệ hại. Ở nơi đó, tôi phải đưa hắn số tiền ít ỏi đáng thương của mình và ép bản thân phải trả đủ. Toàn bộ sự việc có lẽ kéo dài vài tuần vậy mà tôi tưởng chừng như đã trải qua đến mấy năm hay phải chăng là suốt thuở. Tôi hiếm khi có tiền, nhiều nhất chỉ là năm hay mười pen-níc trộm từ bàn bếp khi Lina quăng cái giỏ đi chợ lăn lóc. Kromer ngày càng khinh miệt tôi mắng nhiếc tôi mỗi lần, rằng tôi đã lừa cậu ta, cướp đi những thứ đáng ra thuộc về cậu ta, ăn trộm của cậu ta, khiến cậu ta trở nên khốn khổ. Chưa bao giờ trong cuộc đời tôi lại cảm thấy đau đớn, tuyệt vọng như một tên nô lệ đến thế.

(16)

Tôi để vào ống tiết kiệm mấy đồng bạc đồ chơi và đặt nó trở lại bàn của mẹ tôi. Chẳng ai hỏi đến số tiền ấy, nhưng cảm giác rằng mọi người có thể sẽ hỏi lúc nào cũng thường trực trong tôi. Điều làm tôi sợ hãi còn hơn cả tiếng huýt sáo hung dữ của Kromer lúc này đây chính là tiếng bước chân ngày một gần của mẹ, phải chăng mẹ tới để tra hỏi tôi về cái ống tiết kiệm đó?

Vì tôi đã đi tay không đến gặp kẻ hành hạ mình suốt thời gian qua quá nhiều lần, cậu ta bắt đầu tìm đủ cách để quấy phá và lợi dụng tôi. Tôi phải làm mọi việc theo lệnh của cậu ta, kể cả những việt lặt vặt bố cậu ta sai làm. Có khi cậu ta lại yêu cầu tôi phải làm những trò khó nhằn như nhảy lò cò một chân trong mười phút, dán giấy vào sau lưng người qua đường. Bao đêm trong những giấc mơ tôi đã tự thêm thắt đủ thứ vào những màn tra tấn ấy và nằm ngập trong vũng mồ hôi vì những giấc mộng đêm khuya.

Có những khi tôi thực sự ốm nặng. Tôi nôn mửa liên tục, được vài lần hạ sốt thì đến đêm cơ thể lại nóng ran và đẫm mồ hôi. Mẹ tôi nhận ra có điều không ổn và không ngừng túc trực quan tâm. Nhưng điều đó chỉ tra tấn tôi đau gấp bội vì tôi chẳng thể đáp lời rồi phó thác tất thảy cho bà.

Vào một đêm sau khi tôi đã chìm vào mộng mị, mẹ mang cho tôi một thanh sô-cô-la, gợi nhớ cho tôi về những ngày xưa cũ, mỗi khi ngoan ngoãn sẽ được nhận quà. Giờ mẹ đứng đó và đưa tôi thanh kẹo ngọt ngào, ánh nhìn bi thương đến mức tôi chỉ có thể im lặng lắc đầu. Khẽ khàng vuốt tóc tôi và hỏi chuyện, nhưng tôi chỉ có thể trả lời:

“Không! Con giờ không muốn ăn gì cả.”

Mẹ lặng lẽ để thanh sô-cô-la lên bàn và rời đi. Sáng hôm sau, khi mẹ hỏi về lý do tôi hành xử kỳ lạ trong đêm trước đó, tôi chỉ có thể vờ như mình đã quên hết mọi chuyện. Có lần mẹ đưa tôi đi kiểm tra, bác sỹ đã khám và dặn tôi tắm nước lạnh vào buổi sáng. Khi ấy tình trạng tôi tồi tệ đến điên rồ. Giữa sự bình yên trật tự trong nhà, tôi lại sống đầy hổ thẹn, đau đớn như một bóng ma. Tôi không can dự vào cuộc sống của người khác nữa, tôi gần như đã quên mất chính bản thân trong một thời khắc nào đó. Còn với cha, người vẫn thường cáu kỉnh và hỏi tôi có chuyện gì, tôi đã trở nên hoàn toàn lạnh nhạt.

(17)

Sự cứu rỗi linh hồn tôi khởi nguồn từ một nơi tôi chẳng hề ngờ đến, cùng lúc mang một nhân tố mới vào cuộc đời tôi và chi phối nó đến tận hôm nay.

Có một học sinh chuyển trường, anh ta là con trai của một góa phụ giàu có mới dọn đến thị trấn. Anh ta đeo băng tang trên tay áo, vì lớn hơn tôi vài tuổi nên được nhận vào lớp của khối trên. Dù vậy anh ta vẫn khiến cho tôi, hay bất kỳ người nào khác, không thể không chú ý. Vị học sinh kỳ lạ này mang lại cảm giác chín chắn hơn nhiều so với tuổi thật, chính xác thì chẳng có chút nào giống với một cậu trai. Trái ngược với chúng tôi, anh ta mang trên mình sự xa cách và trưởng thành, giống như một người đàn ông, hay đúng hơn là một quý ngài lịch lãm. Anh ta không được lòng mọi người cho lắm, chẳng chơi cùng chúng tôi những trò chơi con trẻ, cũng chẳng bao giờ nô đùa ầm ĩ cùng bạn bè. Chỉ duy có chất giọng mạnh mẽ đầy tự tin khi trả lời giáo viên mới khiến đám học sinh nhìn anh ta bằng ánh mắt ngập đầy ngưỡng mộ. Anh ta tên là Max Demian.

Một ngày như thường lệ, chúng tôi phải học ghép với một lớp khác vì một vài lý do, và đó là lớp của Demian. Lớp ít tuổi hơn bọn tôi học về Kinh thánh, còn lớp lớn phải viết tiểu luận. Khi giáo viên cứ nhắc đi nhắc lại về câu chuyện của Cain và Abel, tôi lại không thể ngăn bản thân nhìn Demian thật kỹ. Khuôn mặt anh ta mang theo sự mê hoặc kỳ lạ, tôi nhìn thấy được sự thông minh, sáng láng và nét cương nghị toát ra khi anh ta chăm chú tập trung vào việc của mình. Trông anh ta chẳng chút nào giống một học sinh đang làm bài tập mà giống một nhà khoa học đang mải mê với nghiên cứu của riêng mình. Ấn tượng của tôi về anh ta không tốt lắm, ngược lại, tôi còn có chút không thích. Demian là người quá siêu việt và độc lập, hành động cử chỉ lại tràn đầy vẻ tự tin khiêu khích, và ánh mắt đượm buồn, thoáng nhuốm vẻ châm biếm của những kẻ trưởng thành – ánh mắt mà không một đứa trẻ con nào thấy thích. Nhưng tôi không thể ngăn bản thân mình dõi theo anh ấy, dù cho tôi có yêu thích hay căm ghét, mỗi khi anh ta liếc về phía tôi, tôi chỉ có thể hoảng loạn đảo mắt qua hướng khác. Mỗi khi tôi hồi tưởng lại ngày hôm ấy, và bộ dáng của Demian dưới danh một học sinh, tôi chỉ có thể nói rằng, hoàn toàn khác với tất cả những người còn lại, anh ấy trọn vẹn là chính mình. Anh ta nổi bật bằng cá tính riêng biệt dù bản thân đã cố gắng che giấu nó, điệu bộ và tác phong tựa như vị hoàng tử cải trang giữa đám nông dân tầm thường, phải chịu đựng đủ điều để hòa mình vào đám đông.

Anh ta đi sau tôi trên đường từ trường về nhà, và khi những người khác tản dần về hướng khác, anh ta đi lên bắt kịp tôi và nói xin chào. Ngay cả cách chào của anh ta cũng rất người lớn và lịch sự dù cậu ta đã cố bắt chước giọng điệu của mấy thằng nhóc ở trường.

(18)

Tôi cảm thấy có chút được tâng bốc và lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi kể cho anh ta về nơi tôi sống.

“Ồ ở đó sao, tôi biết ngôi nhà đó. Phía trên cái cánh cửa có gì đó rất lạ, tôi đã bị thu hút ngay lần đầu thấy nhìn thấy.” Anh ta mỉm cười.

Ban đầu tôi không hiểu ý anh ta, tôi chỉ rất bất ngờ rằng anh ấy biết về ngôi nhà tôi sống còn rõ hơn cả chủ nhân của nó. Viên đá đỉnh vòm [7] phía trên

cửa ra vào là một bức phù điêu, nhưng nó đã bị thời gian mài mòn và thường được sơn phủ lại. Theo những gì tôi biết, thứ đó hoàn toàn chẳng ảnh hưởng gì đến gia đình tôi.

“Tôi chẳng biết gì cả. Chắc là một con chim hay cái gì cũ kĩ tương tự thế. Trước đây ngôi nhà là một phần của tu viện.” Tôi trả lời ngượng nghịu.

“Có thể lắm. Thỉnh thoảng cậu nên xem qua chút, mấy phiến đá như thế này thú vị lắm. Tôi nghĩ đã từng có một con diều hâu ở đây.”

Chúng tôi tiếp tục rảo bước và tôi cảm thấy có chút nghi hoặc. Bỗng nhiên Demian phá lên cười như đụng phải thứ gì hay ho lắm vậy.

“Đúng rồi, hôm nay tiết học chung của lớp tôi và cậu,” anh ta vẫn không ngừng cười, “Câu chuyện về Cain và dấu ấn tội lỗi của anh ta [8] ấy. Cậu có

thích nó không?

Không. Cái đó không giống với bất kỳ thứ gì tôi được học trước đây. Nhưng tôi không dám nói ra, có cảm giác bản thân đang bị một người lớn tra hỏi vậy. Vì thế tôi nói rằng mình chẳng quan tâm đến câu chuyện đó.

Demian vỗ vai tôi và nói:

“Cậu không cần phải vờ vịt với tôi. Thực sự thì câu chuyện đó rất đặc biệt. Nó xuất sắc hơn phần lớn những thứ chúng ta được dạy ở trường. Thầy giáo không phân tích sâu về nó, chỉ đề cập đến mấy thứ bình thường như Chúa trời, tội lỗi đại loại thế. Nhưng tôi tin –” Anh ta ngừng lại một chút rồi mỉm cười nhìn tôi và hỏi: “Nó có làm cậu thấy hứng thú không?” rồi tiếp tục, “Tôi nghĩ người ta còn có thể giải thích câu chuyện về Cain bằng một cách khác nữa. Chắc chắn phần lớn những thứ ta được dạy đều đúng, nhưng hẳn sẽ có người nhìn nhận những điều đó từ một góc nhìn khác biệt hoàn toàn so với giáo viên, và lần nào thì phần kiến thức ấy cũng được làm rõ nghĩa và có lý hơn. Tỉ dụ như có người sẽ không thể thỏa mãn với cách giải thích về Cain và cái dấu tội lỗi đó. Cậu biết mà, việc một ai đó giết em trai của mình bằng một phiến đá, sau đó lại hoảng sợ và hối cải hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng việc

(19)

anh ta được ban thưởng một chiếc “huân chương” cho sự yếu đuối của mình – một cái dấu bảo vệ anh ta và khiến cho tất cả mọi người kính sợ quyền năng của Chúa – thì rất kỳ lạ đúng không?”

“Phải đấy,” Tôi hào hứng trả lời, suy nghĩ của anh ta bắt đầu cuốn hút tôi. “Nhưng cách hiểu khác về câu chuyện này có thể là gì?”

Demian lại vỗ vai tôi và nói:

“Đơn giản mà, yếu tố đầu tiên khởi nguồn cho mọi thứ trong truyện là cái dấu ấn đó. Chúng ta thấy một kẻ mang trên mặt thứ dấu ấn dọa người. Anh ta và cả những đứa con của anh ta đều khiến người ta sợ hãi mà chẳng dám chạm vào. Có thể đoán, không, có thể chắc chắn rằng cái dấu ấn đó không đơn giản như một cái dấu nhật ấn [9], cuộc sống có bao giờ đơn giản và dễ

dàng đến vậy đâu. Có lẽ với mọi người, anh ta có mang vẻ độc ác nhàn nhạt, có chăng là chút gì đó thông tuệ và dũng cảm hơn người. Người đàn ông này mang đầy quyền năng, người ta chỉ tiếp cận anh ta bằng nỗi kinh sợ tột cùng. Anh ta mang trên mình một ¨dấu hiệu¨. Cậu muốn giải thích điều đó thế nào không quan trọng. Người ta thì chỉ muốn mọi chuyện xuôi theo ý nghĩ của họ. Họ sợ hãi những đứa con của Cain, vì chúng sinh ra đã mang trên mình “dấu hiệu” đó. Ý nghĩa của nó chỉ đơn thuần là một dấu hiệu nhận biết, nhưng họ đã nhìn nhận theo hướng trái ngược hoàn toàn. Họ nói: ‘Những đứa trẻ mang ấn đều được định sẵn một số mệnh lạ kỳ.’ – mà hẳn là vậy nhỉ. Người ta luôn sợ hãi những kẻ can đảm đầy nghị lực. Việc một giống loài toàn những kẻ không biết sợ đầy hung hãn được buông mình tự do rõ ràng là một sự xúc phạm nhục nhã, vì thế họ gán cho những người đó những thứ biệt danh và truyền thuyết như một sự trả đũa, để đền bù cho bao lần họ cảm thấy hoảng sợ – cậu hiểu chứ?”

“Tôi hiểu. Vậy có nghĩa là thực ra Cain không hề xấu xa sao? Và toàn bộ câu chuyện trong Kinh thánh thực sự không đáng tin ư?”

“Có và không. Những câu chuyện cổ hủ đó lúc nào cũng đúng nhưng không phải lúc nào cũng ghi lại sự việc cũng như mang đến cách nhìn nhận chính xác. Nói cho cùng, ý tôi là Cain là một người hoàn toàn bình thường, câu chuyện chĩa mũi dùi vào anh ta đơn giản chỉ là do con người sợ hãi. Nó chỉ là một lời đồn, là thứ mà mọi người vẫn luôn rỉ tai nhau, và điều duy nhất đúng sự thật ở đây chỉ là Cain và con của anh ta thực sự mang trên mình một loại dấu ấn khác người thôi.”

“Vậy anh có nghĩ chuyện giết em trai cũng không có thật không?” Tôi sửng sốt.

(20)

“À cái đó chắc chắn là thật chứ. Kẻ mạnh trừ khử kẻ yếu hơn. Cũng không chắc kẻ bị giết có đúng là em trai anh ta không, nhưng cũng chẳng quan trọng. Sau cùng thì đâu cũng là anh em. Vì thế một kẻ mạnh kết liễu một kẻ yếu, nó có thể thực sự là một hành động tàn bạo nhưng cũng có thể không. Dù thế nào, tất cả những kẻ nhu nhược yếu hèn giờ đây đều phải kính sợ anh ta. Họ cứ tiếp tục cay đắng than phiền chuyện đó, nhưng nếu cậu hỏi ‘Tại sao các người không quay lại và giết anh ta luôn đi?’, hẳn là họ sẽ nói rằng ‘Không được đâu, hắn ta mang dấu hiệu tội lỗi. Chúa đã đóng ấn ký lên hắn.’ thay vì dám trả lời ‘Vì chúng tôi hèn nhát.’. Sự lừa lọc hẳn phải bắt nguồn từ đó. Ồ, có vẻ tôi giữ chân cậu lâu quá. Gặp lại sau nhé.”

Demian rẽ vào ngõ Alt và bỏ lại tôi đứng đó cùng những ngổn ngang mà tôi chưa một lần đối mặt. Mọi thứ anh ấy nói mới lạ thường làm sao. Cain là con người cao quý, còn Abel là kẻ đê hèn. Dấu ấn của Cain là ấn ký đặc biệt, điều đó thật vô lý, báng bổ và tội lỗi. Sao Chúa có thể chấp nhận điều đó? Chẳng phải Người chỉ nhận lễ vật của Abel thôi sao? Người chỉ yêu Abel không phải sao? Không, những gì Demian nói thật điên rồ. Tôi nghĩ rằng anh ta chỉ muốn chơi đùa và khiến tôi lạc lối. Anh ta thông minh, có tài hùng biện, nhưng anh ta không thể bịa đặt những điều như vậy, không phải với tôi!

Tôi chưa bao giờ ngẫm nghĩ quá nhiều như thế về một câu chuyện trong Kinh thánh hay bất kỳ câu chuyện nào khác. Và cũng trong một khoảng thời gian dài tôi đã không thể hoàn toàn lãng quên Kromer. Cậu ta vẫn lởn vởn trong tâm trí tôi hàng giờ hay trong cả một đêm. Tôi đọc lại câu chuyện về Cain và Abel được viết trong Kinh thánh một lần nữa ở nhà. Nó rất ngắn gọn và rõ ràng, thật vớ vẩn khi tìm kiếm một ý nghĩa đặc biệt bị ẩn đi. Trong bất cứ trường hợp nào, kẻ giết người nào cũng có thể tuyên bố hắn là con chiên ngoan đạo của Chúa trời sao? Không, những gì Demian nói thật vô nghĩa. Điều làm tôi hài lòng chỉ là sự thản nhiên và cái vẻ thanh nhã nơi anh ta khi nói những điều ấy như thể tự bản thân mọi thứ đã quá ư rõ ràng. Và còn một điều nữa làm tôi thích, đó chính là ánh mắt của anh ta!

Tuy vậy, tôi vẫn cảm thấy có gì không đúng, cuộc đời tôi đang chất đầy lộn xộn. Tôi đã sống trong một thế giới trong lành và không bị ô uế, trở thành một kẻ giống như Abel, và giờ đây tôi mắc kẹt và chìm sâu trong cái “thế giới còn lại” kia, nhưng suy cho cùng cũng chẳng hoàn toàn là lỗi của tôi. Làm sao tôi có thể nghĩ như thế được? Và giờ đây những kỷ niệm ùa về khiến tôi suýt nữa ngạt thở. Mọi khổ đau đều bắt đầu từ buổi tối tai hại đó, khi tôi tranh cãi với cha. Trong một khoảnh khắc, tôi đã nhìn thấu ông và cái thế giới đầy ánh sáng và sự thông tuệ tuyệt vời bao quanh ông, không gì hơn ngoài sự khinh thường tôi dành cho nó. Khi đó, tôi chính là Cain mang ấn ký trên mình, đã nghĩ rằng dấu ấn đó không phải ký hiệu của sự hổ thẹn, và chính vì mang trên mình tội lỗi và bất hạnh, tôi đã trở nên cao quý hơn cha và tất thảy những gì lễ độ và công bằng.

(21)

Tôi chưa bao giờ nếm trải thứ cảm giác này, khi mà những suy tư được bộc lộ một cách rõ ràng, nhưng tất cả những điều này đã bao hàm trong nó, biến thành sự tuôn trào xúc cảm, những kích thích lạ lẫm, khiến tôi tổn thương nhưng cũng khiến tôi tự hào.

Khi tôi nghĩ tới Demian và cách nói kỳ lạ của anh về sự dũng cảm và tính yếu hèn, tới cái định nghĩa đầy mới mẻ về dấu ấn trên trán của Cain, tới cái cách mà ánh mắt trưởng thành của anh ta mê say thế nào khi kể về nó, câu hỏi thoáng qua đầu tôi rằng liệu chính Demian có phải Cain hay không? Tại sao cậu ta phải bảo vệ Cain nếu không phải vì anh ta nhận ra sự tương đồng giữa hai người? Tại sao ánh mắt anh ta lại mãnh liệt đến thế? Tại sao anh ta luôn tỏ ra khinh khỉnh khi nhắc đến “những người khác”, những kẻ anh ta gọi là hèn nhát mà thực ra là những người ngoan đạo được Chúa trời chọn lựa? Tôi không thể tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này. Demian đã ném một viên đá vào lòng giếng chứa những điều thiện chân bao gồm cả tâm hồn tuổi trẻ của tôi. Và trong suốt một thời gian dài, câu chuyện về Cain, về việc giết em, và cái “dấu ấn” đã đẩy tôi ra xa khỏi những nhận thức, những hồ nghi và chỉ trích mà tôi đã thử lĩnh hội về.

Tôi để ý rằng Demian cũng tạo ra sức hấp dẫn đối với những học sinh khác. Tôi chưa kể cho bất cứ ai về phiên bản câu chuyện về Cain của anh ta, nhưng mọi người vẫn bị anh ấy thu hút. Dù sao thì đã có rất nhiều tin đồn xung quanh cậu học sinh mới này. Nếu tôi có thể nhớ được hết, tôi sẽ kể từng tí và mỗi lời đều khiến Demian tỏa sáng hơn một chút. Điều đầu tiên tôi nhớ được là về người mẹ giàu có của Demian, chẳng là cả bà ấy và cậu con trai đều chưa từng một lần xuất hiện ở nhà thờ. Có tin đồn rằng họ là người Do thái nhưng cũng có thể họ bí mật theo đạo Hồi. Rồi còn có những chuyện xung quanh sức mạnh trong truyền thuyết của Max Demian. Sự thật là khi thằng nhóc khỏe nhất lớp của Demian chế giễu anh ta là đồ hèn nhát khi từ chối nhận lời đánh nhau, Demian đã làm bẽ mặt tên đó ngay trước lớp. Những người có mặt ở đó kể lại rằng Demian đã túm lấy tay tên nhóc và vặn ngược lên cổ nó, anh ta ghì chặt cho đến khi mặt tên kia tái đi; sau đó, thằng nhóc kia đã chạy mất và đã không thể nâng nổi cánh tay lên trong cả một tuần. Một tối nọ, vài tên con trai thậm chí còn khẳng định thằng nhóc ấy đã chết. Đã có những khi người ta bất chấp mà tin vào những điều hoang đường nhất. Rồi trong một thời gian ngắn người ta đã nghe nhiều tới phát ngán những lời ra tiếng vào về Demian, dù cho sau đó không lâu, tin đồn lại tiếp tục sinh sôi khi mấy tên con trai kháo nhau rằng Demian đã thân mật với bao đứa con gái và rằng Demian là kẻ “biết tuốt”.

Trong khi đó, vấn đề của tôi với Kromer vẫn tiếp tục như trước. Tôi không thể thoát khỏi cậu ta, dù cậu ta có để mặc tôi cả mấy ngày, tôi vẫn bị cậu ta trói buộc. Cậu ta lảng vảng trong những giấc mơ của tôi, và với những trò tai ác cậu ta không thể gây ra cho tôi ngoài đời thực, trí tưởng tượng của tôi để mặc cho cậu ta lộng hành. Trong những giấc mơ như thế, tự tôi khiến mình

(22)

hoàn toàn trở thành nô lệ của cậu ta. Tôi vẫn luôn thường mơ và trong những giấc mơ ấy, tôi hoạt bát hơn bản thân ngoài đời, rồi những bóng ma rút kiệt sinh lực và năng lượng của tôi. Những cơn ác mộng liên tục lặp lại, ở đó Kromer không ngừng ngược đãi tôi, khạc nhổ và đè lên người tôi; hay thậm chí tệ hơn, khiến tôi phạm phải những tội lỗi xấu xa, chính xác là ép buộc tôi bằng sức mạnh mang tính thuyết phục tuyệt đối. Giấc mơ tồi tệ nhất, khiến tôi bật tỉnh và gần như hóa điên, là khi tôi phải giết cha mình. Kromer mài sắc con dao, đặt vào tay tôi; chúng tôi đứng khuất sau những gốc cây nơi đại lộ và chờ một người tôi chẳng biết. Nhưng khi người ấy tiến lại và Kromer cấu tay tôi ra hiệu đó là người tôi phải giết, tôi nhận ra đó là cha mình. Rồi tôi sực tỉnh dậy. Dù tôi vẫn luôn liên hệ những sự kiện này với câu chuyện về Cain và Abel, tôi vẫn không nghĩ nhiều tới Max Demian. Lần tiếp theo khi anh ta lại tiến gần tới tôi, thì kỳ lạ thay, là trong một giấc mơ. Tôi vẫn đang mơ thấy bản thân mình bị hành hạ. Nhưng lần này kẻ bắt nạt và quỳ gối lên người tôi lại là Demian. Và điều đã để lại trong tôi một ấn tượng mới mẻ sâu đậm nhất, là tất cả những ngược đãi Kromer gây ra mà tôi chống cự đầy thống khổ, lại khiến tôi vui mừng biết bao dưới bàn tay của Demian, với thứ xúc cảm được nhào nặn từ cả sợ hãi và ngất ngây khôn tả. Tôi mơ về nó hai lần, sau đó mọi sự tra tấn lại do Kromer kiểm soát.

Tôi không thể phân biệt những gì mình trải qua trong những giấc mơ đó và thực tại trong hàng năm trời. Dù thế nào, thứ quan hệ tệ hại giữa tôi và Kromer cũng sẽ tiếp tục và không đời nào kết thúc cho đến khi tôi trả nợ cho cậu ta đến đồng tiền ăn trộm cuối cùng. Không, giờ cậu ta còn biết việc tôi đã ăn trộm tiền, lần nào cậu ta cũng hỏi tôi lấy tiền từ đâu, điều đó hãm tôi vào thứ gông cùm trói buộc với cậu ta còn chặt hơn trước. Cậu ta thường dọa sẽ nói hết mọi chuyện với cha tôi, nhưng ngay cả khi đó, sự sợ hãi của tôi cũng chẳng bao giờ lớn bằng sự tiếc nuối sâu sắc rằng tại sao ngay từ đầu tôi không là người tự làm điều đó. Khi ấy, tôi đã vô cùng khốn khổ, nhưng không phải lúc nào tôi cũng hối hận về những chuyện đã xảy ra. Có đôi khi tôi nghĩ rằng mọi chuyện đương nhiên phải thế. Tôi nhỏ bé trong bàn tay số mệnh và có cố thế nào cũng không thể thoát ra.

Có thể nhận ra cha mẹ cũng đau buồn vì tình trạng của tôi. Một linh hồn xa lạ đã nắm giữ lấy tâm hồn này. Tôi đã không còn hòa nhập được với những người một thời thân thiết, nhưng đôi khi bao trọn lấy tôi là niềm khao khát mãnh liệt được trở về giữa những con người ấy như tìm về một thiên đường đã mất. Mẹ đối xử với tôi như với một kẻ tàn phế hơn là một tên vô lại, nhưng tôi có thể phán đoán được vị trí thực sự của mình trong gia đình chính xác hơn cả qua thái độ của các chị. Với một thái độ khoan dung độ lượng tột cùng, họ khiến tôi trông chẳng khác nào một kẻ điên, đáng thương hơn là đáng trách, nhưng dù sao vẫn bị ác quỷ nắm trọn trong tay. Họ cầu nguyện cho tôi bằng sự nhiệt thành lạ lẫm và khi nhận ra sự vô nghĩa của những hành động này, tôi cảm thấy bản thân thật khốn khổ. Tôi vẫn thường mang một khát khao cháy bỏng được giải thoát, được thành thật xưng tội, nhưng

Referências

Documentos relacionados

Buquês (mãe, avós, madrinha ou tias da debutante). Arranjos de flores Arranjos de flores –   – com música de fundo e leitura de algum texto. com música de fundo e leitura

Deverá ser efectuada uma avaliação risco-benefício cuidadosa em doentes que estejam num risco aumentado de osteoporose antes de se iniciar Visanne porque os níveis de

Entidade

´ E exatamente sob este aspecto que, no Cap´ıtulo 2, apresenta-se um Sub-Projeto para ser desenvolvido no ˆambito do Programa de Inicia¸c˜ao Cient´ıfica da Universidade Estadual

Formas no vertebrado:.. mostra formas em divisão. Seus movimentos são contínuos, deslocando as hemácias por meio do flagelo livre, dirigido sempre no sentido do deslocamento

entender o que o Dropbox faz para manter sua conta segura e o que você pode fazer para manter a visibilidade e o controle sobre os dados da sua equipe.... Responsabilidades do

Como dados de base foram utilizados: (i) um inventário histórico das manifestações de instabilidade ocorridas na bacia do Rio Grande da Pipa (1434 movimentos de vertente,

Neste trabalho será empregada a técnica de controle não linear baseada na Função Energia Generalizada de Controle para síntese de leis de controles estabilizantes para os