• Nenhum resultado encontrado

Sự gắn kết với chiến lược chuyển đổi của Phần Lan

No documento Bộ ngoại giao Phần Lan (páginas 68-71)

Đoàn đánh giá cuối kỳ đồng tính với những phát hiện của đánh giá trước về chiến lược chuyển đổi ở Việt Nam (Katila và đồng sự 2016). Theo đánh giá về chiến lược chuyển đổi, chiến lược này không đưa ra một khung thời gian hay nguồn lực đủ để hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi sang mô hình hợp tác mới. Thêm vào đó, chiến lược chuyển đổi chủ yếu được xây dựng quanh các dự án đang được triển khai ví dụ như FORMIS II và PFG thay vì cung cấp hướng dẫn cho các dự án này.

Đoàn đánh giá tin rằng cả hai dự án FORMIS II và PFG có thể đã đóng góp được nhiều hơn vào quá trình chuyển đổi nếu hai dự án được thiết kế ngay từ đầu với tư cách là hai dự án chuyển đổi và hai dự án được thiết kế sau, chứ không phải trước, việc chuẩn bị cho chiến lược

chuyển đổi. Do vậy, một số cơ hội để phát triển hình thức hợp tác rộng và mạnh hơn đã bị bỏ lỡ trước khi hỗ trợ song phương của Phần Lan cho hai dự án này kết thúc.

Vì vả hai dự án được thiết kế mà không có định hướng cho chiến lược chuyển đổi, hai dự án không có mục tiêu cụ thể, đầu vào cụ thể hay kết quả dự kiến liên quan đến chuyển đổi cơ chế hợp tác giữa hai bên Việt Nam và Phần Lan. VÌ vậy, kế hoạch hoạt động hàng năm, ngân sách, và báo cáo giám sát không có các yếu tố đóng góp cho quá trình chuyển đổi và do vậy khó có thể đánh giá sự đóng góp của hai dự án này vào chiến lược chuyển đổi vào cuối dự án.

Theo thỏa thuận với MFA và Đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam, hai dự án đều được quản lý một cách linh hoạt với các sửa đổi được đưa ra trong quá trình triển khai dự án. Với sự linh hoạt này, hai dự án có thể đóng góp ở mức độ nhất định vào chiến lược chuyển đổi. Tuy nhiên, sự linh hoạt này không được ghi lại một cách đầy đủ.

Mặc dù có những hạn chế nêu trên trong thiết kế chiến lược chuyển đổi, hai dự án đã nỗ lực để mở rộng quan hệ với các bên liên quan khác nhau phù hợp với chiến lược chuyển đổi để đảm bảo tính bền vững của những cố gắng của họ.

Liên quan đến chuyển đổi quan hệ Phần Lan - Việt Nam, dự án FORMIS II đã đóng góp thành công về mặt đưa công nghệ thông tin của Phần Lan trong lĩnh vực quản trị rừng vào Việt Nam qua việc phát triển các ứng dụng FORMIS. Để làm được điều này, dự án đã giúp thúc đẩy việc sử dụng chuyên môn công nghệ thông tin của Phần Lan trong ngành lâm nghiệp Việt Nam và mở đường một cách có hiệu quả cho sự tham gia trong tương lai của các công ty Phần Lan trong việc phát triển FORMIS cho các lợi ích kinh tế và thương mại chung. Hợp tác trong tương lại có thể hình thành qua các hợp đồng mua sắm dịch vụ của chính phủ hoặc hợp đồng giữa các công ty lâm nghiệp Việt Nam và các nhà phát triển công nghệ thông tin Phần Lan.

Dự án cũng tham gia thành công với các hiệp hội ngành lâm nghiệp Việt Nam trong việc phát triển và thử nghiệm ứng dụng FIMS. Mặc dù không được dự án FORMIS II thành lập, các hiệp hội lâm nghiệp Việt Nam và các cơ quan công nghiệp ở Phần Lan có khả năng liên kết để trao đổi kiến thức và khuyến khích các liên hệ kinh doanh trực tiếp. FORMIS II đã hỗ trợ chuyến thăm của đại diện hai hiệp hội Việt Nam đến Phần Lan trong chuyến tham quan của đoàn doanh nhân Việt Nam đến Phần Lan vào tháng 11 năm 2018.

Sự hợp tác hơn nữa giữa Phần Lan và Việt Nam có thể đã được thúc đẩy trong lĩnh vực nghiên cứukhoa học ở cả hai nước, nhưng điều này đã không xảy ra trong suốt thời gian dự án. Quyền truy cập vào dữ liệu tài nguyên rừng cho công chúng ngay cả ngoài Việt Nam vừa được công bố gần đây có thể kích thích sự quan tâm nhiều hơn của các viện nghiên cứu nước ngoài để truy cập và sử dụng dữ liệu trong các dự án nghiên cứu về Việt Nam. Do đó, sự hợp tác trực tiếp có thể xuất hiện ngay cả khi không có hỗ trợ trực tiếp nào từ dự án.

Để phát triển quan hệ đối tác với các tổ chức hoặc thể chế của Phần Lan, dự án FORMIS II đã có cố gắng qua việc tổ chức các chuyến thăm từ phía Phần Lan sang Việt Nam và từ Việt Nam sang Phần Lan. Tuy nhiên, trong các nỗ lực này FORMIS II chưa vươn tới các nhóm có liên quan từ phía dự án PFG ví dụ chuyến thăm đến Phần Lan vào tháng 11 năm 2018 do FORMIS II tổ chức. Cơ hội cho PFG hợp tác với các tổ chức của Phần Lan ví dụ hiệp hội chủ ừng, các công ty tư nhân hay các tổ chức CSO chưa được thử nghiệp.

Một yếu tố trong phần về lâm nghiệp trong chiến lược chuyển đổi đã đề xuất các nỗ lực cần được đưa ra để phát triển xuất khẩu gỗ của Phần Lan đến Việt Nam. Rõ ràng ý tưởng này trước kia đã được nhóm có tên Business Findland (trước kia gọi là FinPro) và WWF đưa ra nhưng không được tiếp tục xúc tiến.

Câu hỏi đánh giá 14. FORMIS II (và PFG) đã đóng góp như thế nào vào việc thực hiện chiến lược chuyển đổi?

Mặc dù hai dự án không được thiết kế để đóng góp vào chiến lược chuyển đổi, hai dự án đã mở rộng được diện tiếp xúc đến các đối tác phát triển khác và do vậy đặt nền móng cho các loại hình hợp tác khác trong tương lai giữa Việt Nam và Phần Lan.

Bảng 12 Đánh giá chung về tính gắn kết với chiến lược chuyển đổi

Dự án Xếp

hạng Ghi chú

FORMIS II FORMIS II đã góp phần phát triển các phương pháp chuyển đổi và mở rộng phạm vi để vươn tới các bên liên quan khác nhau.

PFG PFG cũng đã vươn đến để khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan trong xã hội dân sự, khối tư nhân và khối nghiên cứu.

FORMIS II

Dự án FORMIS II chưa được thiết kế như một dự án chuyển tiếp, tuy nhiên, một số yếu tố nhất định của dự án đã góp phần thực hiện chiến lược chuyển đổi trong quan hệ đối tác Phần Lan - Việt Nam. Trước hết, bằng cách liên kết thành công với các công ty công nghê thông tin lâm nghiệp chuyên ngành từ Phần Lan, dự án đã tạo ra hiệu quả mở cho các công ty thuộc khối tư nhân Phần Lan tiếp tục tham gia vào ngành lâm nghiệp Việt Nam trong tương lai.

Dự án cũng đã đóng góp đáng kể để đưa Phần Lan vào vị trí trung tâm trong ngành công nghệ thông tin lâm nghiệp tại Việt Nam. Phần lớn chuyên môn của Phần Lan về các giải pháp công nghệ thông tin lâm nghiệp được thừa nhận rộng rãi trong VNFOREST và MARD và được đánh giá cao bởi các bên liên quan khác trong ngành lâm nghiệp, như các hiệp hội ngành lâm nghiệp.

Điều này tạo cơ sở cho Phần Lan để tận dụng những thành tựu này và tạo ra và tạo đà một cách hiệu quả cho việc mở ra các con đường mới cho sự hợp tác trực tiếp của khối tư nhân, ví dụ, có thể bao gồm sự hợp tác và liên minh giữa các hiệp hội lâm nghiệp hoặc hiệp hội chủ rừng của Việt Nam và Phần Lan hay hợp tác trong ngành công nghiệp chế biến gỗ. Các cơ họi khác có thể hiện hình ở sự hợp tác (ví dụ) giữa các trường đại học của hai nước trong lĩnh vực đào tạo công nghệ thông tin liên quan đến rừng.

Đối với FORMIS II, nếu mục tiêu chuyển đổi được đưa vào là một phần của dự án, hoặc ít nhất và thiết kế giai đoạn II, có thể một số lựa chọn khác nhau cáo thể được cân nhắc như 1) phát triển một trong các ứng dụng của FIMS và đưa ra các kế hoạch quản lý tương lai; 2) phát triển một nền tẳng học trực tuyến eLearning và hợp tác với các trường đại học trên lĩnh vực này; và 3) xây dựng Help Desk cho nền tảng FORMIS. Thêm vào đó, đầu vào của dự án có thể đã được lập trình theo một cách khác để tạo điều kiện cho việc chuyển giao quản lý FORMIS sớm hơn sang VNFOREST, các cố vẫn kỹ thuật rút lui dần và từ từ và do vậy tạo việc “hạ cánh mền”

cho dự án. Với cách tiếp cận này, một số cố vấn có lẽ đã có thể có thời gian hỗ trợ các cán bộ của bộ NNPTNT vào giai đoạn cuối của dự án trên cơ sở bán thời gian, hay hỗ trợ khi cần, thay vì chỉ có mặt toàn bộ thời gian lúc ban đầu

PFG

Tương tự như vậy, dự and PFG không được thiết kế với ý tưởng ban đầu để đóng góp vào quá trình chuyển đổi cách thức hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Phần Lan. Tuy vậy, dự án đã mở rộng tầm tiếp cận và các kênh truyền thông cho các hoạt động của dự án để đến được với các bên liên quan trong khối tư nhân, nghiên cứu và các tổ chức CSOs khác. Ví dụ, dự án thúc đẩy mối quan hệ giữa hợp tác xã lâm nghiệp với các hiệp hội sản xuất và chế biến gỗ thành phẩm và gỗ nguyên liệu. Thêm vào đó, dự án cũng đóng góp vào các mục tiêu thúc đẩy “xã hội kiến thức” trong chiến lược chuyển đổi.

Đối với PFG, nếu các mục tiêu chuyển đổi được đưa ra rõ ràng vào thiết kế dự án, có lẽ AAV có thể đã có thể làm nhiều hơn với các đối tác từ các dự án lâm nghiệp và các tổ chức CSO đặc biệt các đối tác cũng đang làm cùng FORMIS. Ví dụ, PFG có cơ hội để tìm hiểu xem liệu nền tảng CSO được phát triển dưới khung FLEGT VPA có thể tham gia vào đóng góp như thế nào cùng với PFG cho chiến lược chuyển đổi.

No documento Bộ ngoại giao Phần Lan (páginas 68-71)