• Nenhum resultado encontrado

Hiệu suất FORMIS II

No documento Bộ ngoại giao Phần Lan (páginas 55-59)

Chi phí ước tính phát triển (một lần) của cơ sở dữ liệu FRMS là 0,10 EUR cho mỗi lô đất lâm nghiệp và dự kiến dữ liệu cụ thể của mỗi lô cụ sẽ được cập nhật trung bình bảy năm một lần với chi phí trung bình 0,24 EUR. Với tính phức tạp của dữ liệu liên quan tới từng lô (và giá trị của nó đối với người dùng), số tiền nêu trêncho thấy FRMS đã đạt được hiệu quả về chi phí.

Chi phí đào tạo cho mỗi người tham gia tương ứng vài trăm EUR, với xu hướng giảm dần theo thời gian.

Giá trị kỳ vọng mà mỗi đồng tiền mà FORMIS II sử dụng sẽ đem lại cao vì dự án mang lại một loạt lợi ích kinh tế và môi trường tiềm năng (như đầu tư và thương mại nước ngoài tăng, doanh thu PFES và tiết kiệm chi phí trong quản lý rừng bền vững), những lợi ích này có khả năng sẽ vượt xa chi phí dự án. Giá trị trực tiếp từ việc đầu tư của dự án thể hiện ở giảm các đầu từ vào hệ thống IT. FORMIS cho phép sử dụng lại các số liệu và các ứng trên web. Hình thức này thường ít tốn kém hơn việc sử dụng các ứng dụng đơn lẻ truyền thống.

Dự án FORMIS II và hệ thống MIS nói chung là một trong những yếu tố khuyến khích mở rộng cơ hội kinh doanh. Giá trì về tiền phụ thuộc vào việc liệu với hỗ trợ của FORMIS các chủ rừng và ngành công nghiệp rừng có thể tăng năng suất của các hoạt động liên quan đến bảo vệ rừng và sản xuất gỗ thương phẩm.

PFG

Giá trị kinh tế và xã hội thu lại từ số tiền của PFG nên được đo lường bằng dữ liệu về thu nhập được tạo ra bởi các dự án sinh kế của PFG; nhưng hiện vẫn chưa có dữ liệu như vậy.

Nhóm đánh giá cuối cùng đã đến thăm các địa điểm và văn phòng dự án vào tháng 11 năm 2018. Các hoạt động cho năm tài chính cuối cùng đang được tiến hành. Mặc dù dự án chính thức kết thúc vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, báo cáo kết thúc dự án đến hạn vào tháng 1 năm 2019. Do đó, báo cáo tài chính hàng năm có sẵn gần nhất là Báo cáo tài chính 201716.

16 Nhóm đánh giá đã xem báo cáo tài chính hàng năm của dự án cho đến tháng 12 năm 2017. Cho thấy rằng vào ngày đó, 79% tổng ngân sách đã được sử dụng và 81% ngân sách cho các hoạt động trực tiếp đã được chi tiêu (Mục tiêu 1: 88% ngân sách chi tiêu, Mục tiêu 2: 76%; Kết quả 3: 28%). Trong báo cáo cuối cùng, 100% kinh phí dự án được báo cáo là đã giải ngân.

Nhóm đánh giá cuối cùng không có lo ngại nào về việc trì hoãn thực hiện dự án và hoàn thành việc giải ngân ngân sách vào cuối dự án.

Câu hỏi đánh giá 7-8 về hiệu suất của các dự án

FORMIS II và PFG đã đạt được kết quả tốt, và hai dự án đã sử dụng hiệu quả các nguồn lực của dự án. Mặc dù cả hai dự án đều gặp phải sự chậm trễ trong quá trình khởi động, việc thực hiện của họ sau đó đã được thúc đẩy và đạt được hầu hết các mục tiêu khi hoàn thành dự án.

Dự án FORMIS II bị chậm khởi động vì có khoảng thời gian gián đoạn giữa giai đoạn I và giai đoạn II của dự án, và quá trình tuyển nhân sự bị kéo dài. Trong khi đó dự án PFG bị chậm do nhu cầu cần sửa đổi thiết kế dự án được đưa ra sau giai đoạn chuẩn bị và nhu cầu cần tuyển nhân viên trong nước và nhân viên quốc tế với chuyên môn về quản lý rừng cộng đồng.

Hiện tại, hệ thống FORMIS quốc gia đã hoàn thiện, và các ứng dụng chính của nó đang hoạt động trên toàn quốc. Dự án PFG đã thí điểm tiếp cận với cấp cộng đồng và chứng minh bằng cách tiếp cận thông tin rừng dự án có thể khuyến khích cộng đồng dân ở vùng nông thôn tham gia nhiều hơn vào bảo vệ và phát triển rừng. Với các thông tin có sẵn rất khó có thể thực hiện phân tích lợi ích chi phí một cách nghiêm ngặt, hoặc thậm chí khó có thể so sánh hai dự án với các dự án tương tự ở nơi khác. Tuy nhiên, hai dự án dường như đã đạt được mục tiêu sử dụngcác nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả.

Bảng 8 Đánh giá chung cho hiệu suất

Dự án Xếp

hạng Ghi chú

FORMIS II Sử dụng tốt nguồn lực, các tác động đạt được sẽ nhiều hơn khi hệ thống được sử dụng rộng rãi

PFG HIệu quả trong việc thử nghiệm cách tiếp cận mới và đã phát huy được thế mạnh từ các nỗ lực khác của AAV

Câu hỏi đánh giá 7. Các hoạt động đã biến các nguồn lực sẵn có thành kết quả mong đợi / đầu ra như thế nào, về mặt số lượng, chất lượng và thời gian?

FORMIS II

Việc khởi động dự án đã bị trì hoãn, gây ra khoảng cách giữa Giai đoạn I và II, và việc tuyển dụng nhân viên địa phương chậm.

Dự thảo báo cáo hoàn thành dự án FORMIS II ngày 29 tháng 11 năm 2018 đã tự đánh giá hiệu quả chi phí của các đầu ra dự án khác nhau. Nhóm Đánh giá đồng tình với bản tự đánh giá của dự án về việc phát triển hệ thống CNTT, nhập dữ liệu và đào tạo.

Phát triển hệ thống và nhập dữ liệu:

Chi phí phát triển hệ thống FRMS lên tới 453 EUR trên mỗi người dùng. Với khoảng 2 người dùng mỗi huyện và tổng số 7,1 triệu lô trong FRMS, những dữ liệu này giúp tính được chi phí phát triển hệ thống là khoảng 1 EUR mỗi huyện, tương ứng với khoản đầu tư ban đầu là 0,10 EUR mỗi lô. Với phạm vi rộng của các loại thông tin thu thập cho từng lô và giá trị của nó đối với người dùng, chi phí này có vẻ tương đối hiệu quả.

Nhân viên của FORMIS II cũng ước tính rằng chi phí nhập dữ liệu trong tương lai cho chính quyền địa phương sẽ là 240.000 EUR mỗi năm, với dữ liệu của 1 triệu lô dự kiến sẽ được cập nhật mỗi năm. Như nêu trên bất kỳ lô cụ thể nào cũng sẽ cần 0,24 EUR chi phí nhập dữ liệu mỗi bảy năm (chi phí không bao gồm khảo sát về sự thay đổi độ che phủ và trạng thái rừng).

Việc sử dụng phần mềm có nguồn mở của dự án là một cách làm có hiệu quả kinh tế, tiết kệm chi phí hàng năm. Không chỉ việc sử dụng phần mềm hệ điều hành có nguồn mở (Lĩn) và phần mềm hệ thống dữ lieu có nguồn mở (PostGres) cho các ổ serve của FORMIS, mà dự án còn

đặc biết triển khai việc sử dụng phần mềm GIS có nguồn mở cho người sử dụng cuối cùng ở hơn 500 huyện. Việc này đã giúp người sử dụng không phải đầu tư và duy trì việc trả phí để sử dụng phần mềm. Cũng theo định hướng này, việc chọn FRMS được phát triển với hệ QGIS có thể được triển khai miễn phí đến tất cả các huyện đã giảm chi phí của công cụ này trong chi phí phát triển ứng dụng này. Nếu chỉ tính chi phí phần mềm, lựa chọn phần mềm có nguồn mở nói chung là đúng dắn. Tuy nhiên, có một hạn chế liên quan đến nguồn mở. Chi phí chỉ cho phần mềm không phản ánh được tổng chi phí cho quyền sở hữu và vận hành vì phần mềm nguồn mở có thể đòi hỏi nhiều thời gian từ nhân viên hoặc đòi hỏi phải nhập thêm số liệu để làm cho phần mềm phù hợp với nhu cầu đặc thù của người sử dụng. Tuy vậy, trong trường hợp xây dựng ứng dụng đặc thù như FRMS và FIMS, chi phí phát triển thực tế cho công cụ này vẫn phải được tính đến cùng với chi phí để có giấy phép thương mại sử dụng phần mềm và chi phí duy trì các công cụ này cũng sẽ phát sinh. Từ khía cạnh này, việc dự án chọn giải pháp nguồn mở vẫn có thể được xem là có hiệu quả chi phí tốt.

Đào tạo:

Việc đào tạo giảng viên TOT rất hiệu quả về mặt chi phí nhờ việc đào tạo giảng viên và các giảng viên này đạo tạo lại người khác sau khi họ được đào tạo. Chi phí cho mỗi người tham gia đào tạo cuối cùng đã giảm từ 1.600 EUR trong khóa đào tạo đầu tiên - thuê một nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài - xuống còn 140 EUR sau khi các giảng viên được đào tạo đầy đủ và thu thập kinh nghiệm từ việc giảng dạy lại những người khác.

Chi phí đào tạo người dùng cho dự án giảm từ 1.080 EUR ban đầu xuống còn 380 EUR. Tuy nhiên, điều này trên thực tế do (các) khoá đào tạo ban đầu do dự án chi trả trong khi việc đào tạo sau được các tỉnh đồng tài trợ. Điều đáng chú ý là những số liệu trước đó chỉ bao gồm các chi phí trong ngân sách của dự án, mà không tính đến các chi phí do các tỉnh và huyện chịu.

PFG

Việc khởi động dự án đã bị trì hoãn, kéo theo các hoạt động có liên quan đến FORMIS bị trậm chễ, cũng như việc trì hoãn tuyển dụng các chuyên gia để hỗ trợ dự án. Dự án sau đó đã được gia hạn thêm một năm hoạt động mà không tăng thêm chi phí, như vậy thời gian của dự án được kéo dài từ ba năm lên bốn năm.

Chi phí dự án đã giảm nhờ thực tế AAV đã triển khia dự án PFG tại các địa điểm họ đã có các hoạt động khác đang diễn ra. Vì vậy, nhân viên dự án đã thiết lập mối quan hệ với người dân và chính quyền địa phương. Thêm vào đó các chuyến đi giám sát hoặc triển khai dự án từ văn phòng AAV ở Hà Nội hiệu quả hơn, vì nhân viên có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau.

Không có bằng chứng về hiệu quả chi phí được cung cấp liên quan tới các mô hình sinh kế.

Câu hỏi đánh giá 8. Các chi phí của dự án có thể được chứng minh bằng kết quả?

FORMIS II

Một đánh giá chi tiết về giá trị đồng tiền của FORMIS II sẽ cần so sánh cẩn thận về chi phí dự án và lợi ích kinh tế và môi trường tiềm năng. Trong khi các chi phí được biết đến, hầu hết các lợi ích của FORMIS II vẫn chưa bắt đầu thành hiện hữu. Tuy nhiên, các bên liên quan khác nhau thừa nhận tiềm năng lớn về lợi ích kinh tế và môi trường của FORMIS II trong tương lai.

Điều này bao gồm:

• Sử dụng công nghệ nền tảng và thiết kế theo hướng cung cấp dịch vụ đã giảm chi phí đầu tư vào ICT trong tương lai, đặc biệt các dịch vụ và số liệu có thể tái sử dụng trong việc phát triển các ứng dụng trong tương lại

• Thu hút đầu tư nước ngoài thông qua dữ liệu FRMS chất lượng cao về lô đất lâm nghiệp (quyền sở hữu, v.v.)

• Gia tăng thương mại quốc tế, ví dụ: thông qua khả năng cải tiến chứng nhận nguồn gốc gỗ xuất khẩu theo FLEGT

• Dữ liệu tốt hơn để tính toán các khoản thanh toán PFES từ các nhà máy thủy điện và các công ty hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng, do đó, doanh thu từ PFES có thể cao hơn cho nhà nước

• Tiết kiệm chi phí trong quản lý lâm nghiệp bền vững

• Cải thiện hiệu quả chi phí của việc thu thập và quản lý dữ liệu

• Cung cấp dữ liệu cần thiết cho chương trình REDD+ quốc gia, liên quan đến REL, MRV và SIS. Việc này có thể hỗ trợ Việt Nam tích đủ điều kiện thực hiện thanh toán cho REDD+

trên cơ sở kết quả thực hiện

• Nhiều cơ hội nghiên cứu hơn thông qua sự sẵn có của dữ liệu mới

• Tăng sinh kế cho chủ sở hữu lô đất lâm nghiệp (xem PFG).

Mặc dù không thể định lượng được những lợi ích này, nhưng rõ ràng các lợi ích có tiềm năng lớn và có khả năng sẽ vượt xa chi phí dự án và đầu từ đã bỏ vào NFIS của chính phủ và các đối tác khác17. Ví dụ, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu dòng vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu tăng và doanh thu PFES tăng nhờ các số liệu và dịch vụ hay ứng dụng mà FORMIS II tạo ra. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng (định lượng) về giá trị đồng tiền.

Báo cáo Kiểm toán 2017 cũng nhấn mạnh một số khía cạnh chứng minh giá trị đồng tiền (dù tổng quát hơn) - chẳng hạn như giá trị gia tăng và hiệu quả trong kế hoạch lâm nghiệp, tính toàn diện của dữ liệu và chỉ đạo trong các lĩnh vực; giá trị của dữ liệu cơ sở và xu hướng cảm nhận của người dùng; và đào tạo nâng cao năng lực.

PFG

Trong khi lợi ích kinh tế và môi trường của FORMIS II là những tác động dài hạn cuối cùng xuất phát từ kết quả của dự án, PFG đặt mục tiêu trực tiếp thúc đẩy sinh kế như là kết quả của dự án. Chỉ số rõ ràng nhất về giá trị đồng tiền sẽ là bằng chứng về thu nhập bổ sung của tất cả những người tham gia dự án sinh kế PFG vượt quá tổng chi phí dự án. Trong các dự án được sử dụng để đánh giá lần cuối cùng, không thể định lượng được những lợi ích bổ sung này, một phần vì một số hoạt động sinh kế đã tồn tại trước khi dự án bắt đầu. Ví dụ, nuôi tôm đã được giới thiệu ở tỉnh Trà Vinh vào năm 1991. Những người nông dân tham gia vào các hoạt động sinh kế nuôi tôm bán sinh thái đã là những người nuôi tôm với các ao nuôi tôm trước khi dự án bắt, họ chỉ đang thử một số công nghệ khác nhau mà dự án giới thiệu.

Đánh giá giữa kỳ của PFG cũng không cung cấp bất kỳ so sánh trước và sau của các mô hình sinh kế. Tuy nhiên, cơ chế quản lý dự án đã được tổ chức theo cách tiết kiệm chi phí. Dự án được hưởng lợi từ các hoạt động AAV khác trong cùng lĩnh vực. Ví dụ, tại tỉnh Cao Bằng, 4 kiốt thông tin đã được thiết lập với (tài trợ bởi) một dự án AAV khác. Do đó, dự án PFG chỉ tài trợ cho 15 trong số 19 kiốt thông tin.

Với ngân sách là 275.000 EUR mỗi năm, AAV đã sử dụng nguồn vốn dự án một cách khôn ngoan để đạt được nhiều kết quả và đầu ra bao gồm cung cấp cây xanh, phân bón, máy tính và điện thoại thông minh, các khóa đào tạo và nâng cao kiến thức của người hưởng thụ dự án ở bốn huyện.

Dự án sẽ được hoàn thành đúng hạn. Ngoài ra, các nguồn lực của dự án cũng đã cung cấp cho AAV và các đối tác bao gồm chính quyền địa phương và người dân địa phương nền tảng có giá trị cho các hoạt động trong tương lai trong việc tham gia quản lý tài nguyên thiên nhiên và phương pháp phát triển dựa trên quyền con người. Về mặt này, hiệu quả của dự án được thể hiện rất rõ.

17 Đoàn đánh giá không đánh giá chi phí đầu tư cho NFIS. NFIS được sử dụng là số liệu thô cho FRMS vì NFIS được xem là bộ số liệu mới cập nhất nhất trong chuỗi các kiểm kê rừng định kỳ của Việt Nam.

NFIS cũng có các số liệu được bốn nhà cung cấp dịch vụ khác nhau cung cấp.

Đối với PFG, chi phí của dự án được chứng minh rõ ràng bằng kết quả và tác động của dự án.

Đến tháng 12 năm 2017, 62% tổng chi phí của dự án đã được sử dụng cho các hoạt động trực tiếp, trong khi 35% tổng chi phí dành cho nhân sự và quản lý.

4.5 Tính bền vững

No documento Bộ ngoại giao Phần Lan (páginas 55-59)